Xem mẫu

  1. PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC ĐẠI HỌC VIỆT NAM THEO HƯỚNG “ĐẠI TRÀ” VÀ “PHÂN TẦNG” ThS. ĐẶNG XUÂN NGỌC Bộ môn Những nguyên lý cơ bản của CNMLN Khoa Lý luận chính trị Trường Đại học Giao thông Vận tải Tóm tắt: Hệ thống giáo dục đại học Việt Nam hiện nay đang phải đối mặt với một vấn đề lớn là làm sao có thể đáp ứng được một cách nhiều nhất và tốt nhất nhu cầu học tập của người dân. Giáo dục đại học phát triển theo hướng nào đang là câu hỏi được đặt ra đối với các nhà quản lý giáo dục và các cơ sở giáo dục đại học. Bài báo này xin được đề cập tới một hướng đi mới trong sự phát triển của giáo dục đại học Việt Nam là “đại trà” và “phân tầng” trong giáo dục đại học. Summary: Today the sytem of Viet Nam greduate education is dealling with a big problem. It is how to apply study need of people. Which way should university education follow is the question to education manager and universities. This article mentions a new way in the development of univerity education, which is “đại trà” or “phân tầng’ đó cũng được coi như một loại hình đầu tư có I. ĐẶT VẤN ĐỀ hiệu quả cao cho tương lai. Chính vì vậy, giáo Hệ thống giáo dục đại học Việt Nam hiện MLN- dục đại học đang phải chịu một áp lực rất lớn VTKT nay đang phải đối mặt với một vấn đề lớn là từ phía nhu cầu của người học trong việc mở làm sao có thể đáp ứng được một cách nhiều rộng quy mô. Giáo dục đại học không chỉ nhất và tốt nhất nhu cầu học tập của người dành riêng cho một bộ phận tinh hoa nữa mà dân. Giáo dục đại học phát triển theo hướng đã trở thành một nền giáo dục đại học cho số nào đang là câu hỏi được đặt ra đối với các đông, giáo dục đại học đại trà. nhà quản lý giáo dục và các cơ sở giáo dục đại Từ những năm 70 của thế kỷ XX nhiều học. Bài báo này xin được đề cập tới một chuyên gia giáo dục đại học ở các nước phát hướng đi mới trong sự phát triển của giáo dục triển trên thế giới đã đưa ra dự báo rằng sẽ có đại học Việt Nam là “đại trà” và “phân tầng” sự dừng lại, thậm chí là giảm đi quy mô của trong giáo dục đại học. giáo dục đại học thế giới. Tuy nhiên trong thực tế, quy mô giáo dục đại học vẫn tiếp tục II. NỘI DUNG tăng và vượt qua mọi dự kiến của các nhà Ngày nay trên thế giới người ta đang có chiến lược. Điển hình như một số nước trong xu hướng xem văn bằng đại học như một tấm khu vực, để thực hiện công nghiệp hoá, họ đã giấy thông hành không thể thiếu được để có tốc độ tăng sinh viên trung bình hằng năm người lao động có thể lọt qua được cỗ máy rất cao. Ví dụ như: thời kỳ 1970 – 1980 là sàng lọc của những nhà tuyển dụng lao động 20% ở Hàn Quốc và Malaysia; thời kỳ 1980 – để có thể tìm được một công việc hài lòng và 1990 là 14,8% ở Hàn Quốc, 13,8% ở
  2. Malaysia và 12% ở Singapore. Ở Trung Quốc thống hai tầng như vậy vừa mang tính kinh tế, trong mấy năm qua có năm tốc độ tăng sinh nhưng đồng thời vẫn đáp ứng được nhu cầu đa viên đến 50%. Nhìn chung tốc độ tăng tỷ lệ dạng của người học. Những quốc gia điển sinh viên thường cao hơn tốc độ tăng GDP hình đi theo xu hướng này như: Phần Lan, {1; 75}. Thuỵ Sỹ, Úc, Mỹ. Ví dụ như ở Úc có một hệ thống những trường đào tạo nghề sau trung Tuy nhiên, khi chuyển từ nền giáo dục học phổ thôngTAFE (Technical and Furthers đại học “tinh hoa” sang nền giáo dục đại học Educations), ở Đức có hệ thống đại học gọi là “đại trà” thì vấn đề chất lượng của giáo dục “Fachhochsehulen” chú trọng những môn học đại học đang là vấn đề được quan tâm nhiều kỹ thuật và dạy nghề, ở Mỹ có hệ thống cao nhất. Hiện nay trên thế giới đang tồn tại hai xu đẳng cộng đồng. Trong đó có thể nói mô hình hướng trong việc giải quyết mối quan hệ giữa giáo dục đại học Mỹ là một điển hình nhất và quy mô và chất lượng. Xu hướng thứ nhất cũng rất thành công khi phát triển theo xu xem trường đại học phải là tinh hoa (như hướng này. Có thể kể ra đây về trường hợp nhau) và sứ mệnh của nó vẫn phải là: kết hợp của bang California như một điển hình về sự đào tạo trình độ/chất lượng cao với nghiên thành công đó. Nhìn chung hệ thống giáo dục cứu khoa học (kiểu đại học truyền thống). đại học ở bang California được chia thành 3 Thực tế cho thấy không một nước nào trên thế tầng. Ở đỉnh là 9 trường đại học chọn lọc giới có thể xây dựng được một hệ thống giáo khoảng 12% số sinh viên và bên dưới là hệ dục đại học như vậy trong bối cảnh ngày nay thống trường đại học “multi – campus” thu khi mà yêu cầu của đào tạo đại trà đang đòi nhận khoảng 26% sinh viên và dưới cùng là hỏi. Bời vì từ cả lý do chi phí quá cao và từ áp khoảng 100 trường đại học cộng đồng đào tạo lực của người học, xã hội đòi hỏi phải bình MLN- VTKT trên một triệu sinh viên của bang. Nhờ cơ cấu thường hoá giáo dục Đại học cũng như phải này mà họ mở rộng được hệ thống giáo dục đa dạng hoá các loại hình đào tạo để đáp ứng đại học đáp ứng được nhu cầu người học, mặt nhu cầu của người học. Điển hình cho xu khác họ lại tạo ra được các trường đại học hướng này là hệ thống giáo dục Đại học ở chất lượng cao hàng đầu thế giới như Berkely, Pháp, Đức. Trong khi đó, xu hướng thứ hai lại California Institute of Technology, Standford khẳng định “nhiều hơn chắc chắn là tồi hơn {1; 18}. nếu ta cứ cố tình biện bạch là tất cả các trường Có một thực tế rõ ràng là, khi chuyển đại học phải như nhau”. Theo xu hướng này, giáo dục đại học từ tinh hoa sang giáo dục đại phải xây dựng một hệ thống các trường đại học đại trà thì chất lượng bình quân của cả học theo hướng đại trà nhưng có sự phân tầng. nền giáo dục đại học có giảm xuống cũng là Điều đó sẽ giải quyết được cả hai vấn đề là một điều đương nhiên. Bởi vì, với số đông: tài nhu cầu của việc mở rộng quy mô, cũng như năng, tư chất, chất lượng đào tạo ở trung học chất lượng phù hợp với mục đích của người phổ thông... sẽ không còn giống như trước. Ví sử dụng. Tầng thứ nhất sẽ là một số ít các dụ như ở Anh khi giáo dục đại học chỉ chọn trường đại học đào tạo theo hướng tinh hoa và 0,5% trong số người từ 18 tuổi trở lên thì chỉ thiên về nghiên cứu (kiểu đại học truyền số thông minh IQs trung bình của nhóm sinh thống). Tầng thứ hai sẽ là phần lớn các trường viên này là 150, nhưng khi giáo dục đại học còn lại tập trung chủ yếu vào đào tạo nghề chọn đến 30% trong số người từ 18 tuổi trở nghiệp và những kỹ năng thực hành. Một hệ
  3. lên thì chỉ số IQs trung bình đã giảm xuống nghĩa rõ ràng Chính từ đó đã gây ra những còn 115 {1 ; 76} (tất nhiên chỉ số IQs chỉ là nghi ngờ của xã hội đối với chất lượng của hệ một kênh tham khảo). thống giáo dục đại học nước ta, thậm chí có người còn đòi hỏi phải thực hiện cuộc đại giải Giáo dục đai học nước ta trong hơn một phẫu để chữa trị những “ung nhọt”, rồi “thay thập kỷ vừa qua cũng đang diễn ra hiện tượng máu” cho giáo dục đại học. “bùng nổ sĩ số” với tốc độ tăng bình quân Việc mở rộng quy mô trong giáo dục đại khoảng 18% năm. Có thể khẳng định rằng chủ học ở nước ta đấy là một điều tất yếu. Bởi vì trương mở rộng quy mô giáo dục đại học, đa quy mô và đi cùng với nó là nhu cầu, khi nhu dạng hoá các loại hình đào tạo, huy động các cầu của người học còn nhiều (mà đây là những nguồn lực ngoài ngân sách để phát triển giáo nhu cầu chính đáng) thì việc hạn chế quy mô dục đại học là một chính sách đúng. Nếu như cũng đồng nghĩa với nó là việc hạn chế cơ hội nhìn lại thời điểm năm 1990, số sinh viên trên được hưởng thụ giáo dục đại học của người dân số ở nước ta khi đó chỉ chiếm 0,2%, một học, đặc biệt khi tấm bằng đại học được coi là tỷ lệ rất thấp so với các nước trong khu vực tấm giấy thông hành để giúp giới trẻ bước vào khi đó như Indonesia là 1,0%, Thái Lan là cuộc sống. Vì vậy, quan điểm cho rằng phải 1,6%. Tuy nhiên, khi có chủ trương mở rộng hạn chế việc mở rộng quy mô để củng cố chất quy mô và xã hội hoá giáo dục thì số lượng lượng là không phù hợp với mục tiêu phát triển sinh viên đã tăng lên rất nhanh. Với tỷ lệ sinh con người, cũng như áp lực của nhu cầu đào viên hiện nay trên quy mô dân số là trên 1,2% tạo đại trà hiện nay. Khi chúng ta mở rộng quy thì số sinh viên nước ta đã trên một triệu mô đào tạo và chuyển dần từ nền giáo dục đại người. Mục tiêu của giáo dục đại học nước ta học cho số ít “tinh hoa” sang nền đại học cho là phải đưa tỷ lệ sinh viên trong độ tuổi đến MLN- VTKT số đông “đại trà”, thì chất lượng đào tạo bình năm 2010 là 15% và 25% đến năm 2020 (Văn quân của cả hệ thống có giảm xuống cũng là kiện Hội nghị TW2). Tuy vậy, trong quá trình điều dễ hiểu và cũng không nên quá lo lắng về phát triển giáo dục đại học ở nước ta cũng chất lượng giáo dục đại học hiện nay. Nhiều đang phải đối mặt với những vấn đề có liên nước trên trế giới trước đây trong quá trình quan đến quy mô và chất lượng, đặc biệt là phát triển giáo dục đại học họ cũng đã từng chất lượng trong giáo dục đại học. Sự phát chấp nhận như vậy. triển quá nhanh của quy mô giáo dục đại học và cùng với nó là chất lượng của giáo dục đại Vậy phải phát triển giáo dục đại học Việt học không theo kịp đã đưa tới những ý kiến Nam đi theo xu hướng nào để giải quyết được trái ngược nhau xung quanh vấn đề có nên mở cả hai vấn đề về quy mô và chất lượng đào rộng quy mô khi mà chất lượng không được tạo. Hay nói một cách khác là phải tìm ra một đảm bảo. Bộ Giáo dục và Đào tạo khẳng định: mô hình thích hợp nhất cho sự phát triển của chất lượng giáo dục đại học đang được nâng giáo dục đại học khi mà áp lực về mở rộng dần trên một số mặt; có những cải tiến bước quy mô đang đòi hỏi. Nếu chúng ta nhìn nhận đầu. Trong khi đó Giáo sư Nguyễn Văn Hiệu vào hai xu hướng trong sự phát triển của giáo lại cho rằng: sự tụt hậu của hệ thống giáo dục dục đại học trên thế giới như đã phân tích ở đại học so với chúng ta trong những thập kỷ trên, thì xu hướng thứ hai đang là xu hướng trước. Tuy nhiên, khi nói về chất lượng giáo được nhiều nước đi theo. Bởi vì xu hướng này dục đại học người ta cũng chưa có một định
  4. đã giải quyết tốt nhất vấn đề quy mô và chất hợp với nhu cầu của địa phương, cộng đồng. lượng trong giáo dục đại học ở nhiều nước Số sinh viên trong tầng này chiếm khoảng phát triển trên thế giới. Vậy phải chăng, giáo 50 -60%. Thời gian đào tạo từ 2 – 3 năm. dục đại học Việt Nam cũng phải đi theo xu Sự phân tầng như trên sẽ giải quyết được hướng đó. Tức là giải pháp cho vấn đề quy áp lực mở rộng quy mô trong quá trình phát mô và chất lượng hiện nay trong giáo dục đại triển của giáo dục đại học ở nước ta, đồng thời học là phải có sự phân tầng trong hệ thống các nó tạo ra được cơ cấu phù hợp của hệ thống trường đại học. Không thể đồng nhất và coi giáo dục đại học nhưng quan trọng hơn là nó các trường đại học là như nhau như những đã giải quyết được bài toán về chất lượng quan điểm truyền thống mà phải có sự thay trong đào tạo đại trà. đổi trong việc đánh giá chất lượng các trường đại học với những tiêu chí cụ thể, rõ ràng. III. KẾT LUẬN Phải có sự thay đổi mục đích trong các Phát triển giáo dục đào tạo nói chung và chương trình của giáo dục đại học, chất lượng phát triển giáo dục đại học nói riêng là sự và số lượng phải gắn liền với mục đích của nghiệp của toàn Đảng, toàn dân. Những thành từng chương trình, đối tượng học. tựu của giáo dục đại học đạt được trong những Theo suy nghĩ trên, hệ thống giáo dục đại năm vừa qua đã góp một phần không nhỏ vào học ở nước ta có thể phân chia thành 3 tầng quá trình phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta. như sau: Tuy nhiên bên cạnh những thành tựu đã đạt Tầng 1: Gồm một số ít các trường đại được thì giáo dục đại học vẫn còn những hạn học mà chương trình đào tạo theo hướng “tinh chế nhất định. Vì vậy, để đáp ứng được trước hoa” và thiên về nghiên cứu. Số sinh viên MLN- những đòi hỏi của quá trình hội nhập quốc tế, VTKT trong tầng này chiếm khoảng 10 – 15% tổng của phát triển kinh tế xã hội trong thời kỳ đẩy số sinh viên. Ở nước ta hệ thống các trường mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, giáo dục này có thể tập trung vào một số các trường đại đại học Việt Nam cần phải tiếp tục đổi mới để học trọng điểm như: Đại học quốc gia Hà Nội, tìm ra hướng phát triển phù hợp khi nhu cầu Đại học quốc gia TP. HCM, Đại học Bách mở rộng quy mô ngày càng rộng và sự đòi hỏi khoa Hà Nội, Đại học Bách khoa TP. HCM, về chất lượng ngày càng cao. Đại học Sư phạm… Tầng 2: Gồm các trường đại học “đại T i liệu tham khảo trà”, chương trình đào tạo tập trung vào thực [1]. Phạm Phụ(2005). Về khuôn mặt mới của giáo dục hành, kỹ năng áp dụng kiến thức vào thực tế, đại học Việt Nam, NXB. Đại học Quốc gia TP.HCM. tức là thiên về kỹ thuật và nghề nghiệp, nhằm [2]. Lâm Quang Thiệp, D.Bruce Jonhstone, Phillip G. Altbach(2006). Giáo dục đại học Hoa Kỳ, NXB. Giáo dục. phục vụ trực tiếp các hoạt động kinh tế xã hội. Số sinh viên trong tầng này chiếm khoảng 30 [3]. James L.Bess: Nền tảng giáo dục đại học Mỹ, NXB. Simon& Schuster Custom. – 35%, thời gian đao tạo từ 3 -4 năm. [4]. Bộ Giáo dục và Đào tạo: Đề án đổi mới giáo Tầng 3: Gồm hệ thống các trường đại học dục đại học Việt Nam. và cao đẳng cộng đồng tập trung chủ yếu ở [5]. Nghị quyết của Chính phủ số 14/2005/NQ-CP các địa phương. Chương trình đào tạo chủ yếu về đổi mới cơ bản và toàn diện giáo dục đại học tập trung vào thực hành, ngành nghề phải phù Việt Nam, giai đoạn 2006- 2020♦
nguon tai.lieu . vn