Xem mẫu

  1. BÁO CÁO KHẢO SÁT, NGHIÊN CỨU VỀ CÁC HÀNH VI CẢN TRỞ TÁC NGHIỆP BÁO CHÍ Hà Nội, 2011
  2. MỤC LỤC MỞ ĐẦU ........................................................................................ 4 I. Bối cảnh chung ......................................................................... 4 II. Lý do thực hiện nghiên cứu .................................................. 5 III. Phạm vi, đối tượng, thời gian, phương pháp nghiên cứu ............................................................ 7 PHẦN A THỰC TRẠNG TÌNH HÌNH CẢN TRỞ TÁC NGHIỆP VÀ CÁC BIỆN PHÁP ĐÃ ĐƯỢC ÁP DỤNG I. Quá trình nghiên cứu trước đây – Các định nghĩa đã có về “cản trở tác nghiệp báo chí” ......... 11 II. Một số vụ cản trở tác nghiệp điển hình trong hai năm qua ................................................................................. 14 III. Một số kết quả khảo sát đáng chú ý ................................. 19 IV. Cản trở tác nghiệp báo chí trong lĩnh vực bảo vệ tài nguyên-môi trường và chống tham nhũng ..................... 45 V. Hoạt động cung cấp thông tin của các cơ quan Nhà nước – Quy chế người phát ngôn ................................... 55 PHẦN B NGUYÊN NHÂN CỦA HÀNH VI CẢN TRỞ BÁO CHÍ TÁC NGHIỆP I. Nguyên nhân về phía người làm báo .................................. 63 1. Nguyên nhân chủ quan ...................................................... 63 2. Nguyên nhân khách quan .................................................. 67 II. Nguyên nhân về phía cơ quan báo chí .............................. 68 2 BÁO CÁO KHẢO SÁT, NGHIÊN CỨU VỀ CÁC HÀNH VI CẢN TRỞ TÁC NGHIỆP BÁO CHÍ
  3. 1. Khi tòa soạn kém uy tín .................................................... 68 2. Khi tòa soạn không đoàn kết ........................................... 69 III. Nguyên nhân về phía đối tượng Cản trở ........................ 70 1. Cơ quan Nhà nước, doanh nghiệp, các tổ chức xã hội… .......................................................... 70 2. Người dân ........................................................................... 72 IV. Nguyên nhân liên quan đến hệ thống pháp luật và cơ chế thực thi ........................................................................ 73 A. CÁC TỒN TẠI 1. Hệ thống pháp luật ............................................................. 74 2. Hội nghề nghiệp (Hội Nhà báo)....................................... 83 3. Cơ quan quản lý nhà nước (kiểm tra, giám sát việc tuân thủ pháp luật về báo chí) ................... 88 B. CÁC NGUYÊN NHÂN ......................................................... 90 C. CÁC GIẢI PHÁP ................................................................... 93 1. Truyền thông (tuyên truyền - giáo dục) .......................... 93 2. Kiện toàn pháp luật ............................................................ 95 3. Nâng cao vai trò của Hội Nhà báo Việt Nam ................. 96 4. Đối với cơ quan quản lý nhà nước ................................... 97 KẾT LUẬN.................................................................................100 PHỤ LỤC ...................................................................................104 TỔNG HỢP KẾT QUẢ KHẢO SÁT TRÊN BÁO ĐIỆN TỬ..............................................................113 BÁO CÁO KHẢO SÁT, NGHIÊN CỨU VỀ CÁC HÀNH VI CẢN TRỞ TÁC NGHIỆP BÁO CHÍ 3
  4. PHẦN MỞ ĐẦU I. BỐI CẢNH CHUNG Từ một nước chậm phát triển, Việt Nam đã bước sang giai đoạn trở thành một nước phát triển với trình độ trung bình. Nền kinh tế đang chuyển dần từ chiều rộng sang chiều sâu với những bước đi cụ thể và tầm nhìn dài hạn. Tuy nhiên hệ lụy của chính sách tăng trưởng theo chiều rộng một thời đã bộc lộ một số mặt trái: môi trường bị tàn phá, nạn tham nhũng vẫn diễn biến phức tạp, cái xấu-cái tốt, cái cũ-cái mới đan xen và không dễ nhận diện, đặc biệt là sự tác động của nhiều nhóm lợi ích vào chính sách, vào việc ưu tiên sử dụng tài nguyên và các nguồn lực diễn ra ngày một phức tạp… Những điều này đã tạo ra những nguy cơ lớn gây bất ổn xã hội, đe dọa sự phát triển. Trong bối cảnh đó, với vai trò là công cụ của Đảng, Nhà nước, tiếng nói của các tổ chức xã hội và là diễn đàn của nhân dân, lực lượng báo chí đã bám sát các sự kiện xảy ra trong xã hội, phản ánh đa chiều những vấn đề nảy sinh từ hiện tượng cũng như lột tả bản chất các xung đột, mâu thuẫn xảy ra trong quá trình đi lên của đất nước. Sự tham gia của báo chí vừa là thực hiện nghĩa vụ cung cấp thông tin 4 BÁO CÁO KHẢO SÁT, NGHIÊN CỨU VỀ CÁC HÀNH VI CẢN TRỞ TÁC NGHIỆP BÁO CHÍ
  5. cho người dân theo Hiến pháp, vừa giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước với tư cách là nhân tố chủ chốt điều hành và phân chia các nguồn lực trong xã hội. Chính vì đánh giá rất cao vai trò của báo chí nên từ năm 1989, Quốc hội đã ban hành Luật Báo chí nhằm tạo hành lang pháp lý cho các phóng viên, nhà báo hoạt động. Luật này không những minh định quyền thu thập và công bố thông tin của nhà báo mà còn nghiêm cấm tất cả những hành vi cản trở nhà báo hành nghề đúng pháp luật. Sau đó, Luật Phòng chống tham nhũng và nhiều văn bản khác tiếp tục cụ thể hóa quyền này của báo chí với mục tiêu tạo điều kiện tốt hơn cho các nhà báo hoạt động, cũng là nhằm phục vụ xã hội tốt hơn. Tuy nhiên, do tính chất phức tạp của các sự vật hiện tượng diễn ra trong quá trình phát triển, do bị đụng chạm đến lợi ích, do nhà báo bị tác động hoặc đơn giản do thiếu hiểu biết, ở một số nơi, hiện tượng cản trở nhà báo hành nghề vẫn diễn ra, có trường hợp rất nghiêm trọng, gây bức xúc dư luận xã hội. Trong vài năm gần đây, hiện tượng này diễn ra ngày một nhiều, hậu quả ngày một lớn, diễn ra ở tất cả mọi vùng miền, lĩnh vực… nhưng kết quả xử lý các hành vi cản trở nhà báo lại không tương xứng với mong muốn của các cơ quan quản lý, chỉ đạo báo chí, của chính giới báo chí cũng như của các tầng lớp nhân dân. Tình hình này đòi hỏi có những khảo sát, đánh giá cụ thể về thực trạng, chỉ rõ nguyên nhân và đề ra giải pháp nhằm hạn chế tình trạng cản trở nhà báo tác nghiệp. II. LÝ DO THỰC HIỆN NGHIÊN CỨU Tính đến tháng 3/2011, trên lĩnh vực báo in, cả nước có 745 cơ quan báo chí với 1003 ấn phẩm. Ở lĩ nh vực phát thanh và truyền hình, có 67 đài phát thanh, truyền hình gồm 3 đài phát thanh, truyền hình ở trung ương (VOV, VTV, VTC), và 64 đài phát thanh-truyền hình ở các địa phương với 200 kênh sản xuất trong nước và 67 kênh nước ngoài. Trong lĩnh vực thông tin điện tử, cả nước có 46 báo điện tử và tạp chí điện tử, 287 trang tin điện tử của các cơ quan báo chí và hàng nghìn trang tin điện tử có nội dung thông tin của các cơ quan Đảng, Nhà nước và Chính phủ, các đoàn thể, hội, hiệp hội và các doanh nghiệp. BÁO CÁO KHẢO SÁT, NGHIÊN CỨU VỀ CÁC HÀNH VI CẢN TRỞ TÁC NGHIỆP BÁO CHÍ 5
  6. Cũng tính đến tháng 3/2001, cả nước có gần 17.000 người đã được cấp thẻ nhà báo và trên 5.000 người đang hoạt động báo chí nhưng chưa có thẻ, trong đó nhiều phóng viên, biên tập viên có trình độ chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ khá. Hiện tượng phóng viên, nhà báo bị cản trở khi tác nghiệp đã diễn ra từ lâu, ở nhiều vùng, do nhiều loại đối tượng gây ra với đủ loại hậu quả. Xét về mặt hình thức, các quy định của pháp luật về lĩnh vực này có tương đối nhiều, hệ thống cơ quan quản lý, chỉ đạo báo chí và tổ chức của hội nghề nghiệp cũng khá đầy đủ. Tuy nhiên, tình hình các phóng viên, nhà báo liên tục bị cản trở vẫn diễn ra, trong khi từ trước đến nay chưa có bất cứ nghiên cứu bài bản, toàn diện nào về tình trạng này. RED Communication là tổ chức khoa học trực thuộc Liên hiệp Các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam, có chức năng nghiên cứu về lĩnh vực truyền thông phát triển. Các nhân sự tham gia RED đều từng là nhà báo, từng quan tâm và bám sát các hiện tượng phóng viên, nhà báo bị cản trở khi tác nghiệp. Ngay tại thời điểm RED đề xuất ý tưởng nghiên cứu (tháng 4/2011), đã xảy ra liên tiếp các vụ cản trở nhà báo gây xôn xao dư luận và giống như nhiều sự việc khác, các vụ cản trở này đa phần không tìm ra thủ phạm hoặc thủ phạm không bị xử lý nghiêm minh. Chính vì thế, từ tháng 6/2011, được sự hỗ trợ của Bộ Ngoại giao Anh, được cơ quan chủ quản là Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phê duyệt, RED triển khai thực hiện dự án trên quy mô toàn quốc với nhiều hoạt động cụ thể. Chính vì tầm quan trọng của dự án, RED Communication đã mời nhóm chuyên gia nghiên cứu là những người đã hoạt động nhiều năm trong lĩnh vực báo chí, có nhiều kinh nghiệm, am hiểu công tác nghiên cứu và xây dựng chính sách, đã tham gia nhiều hoạt động tương tự ở giai đoạn tiền dự án. 6 BÁO CÁO KHẢO SÁT, NGHIÊN CỨU VỀ CÁC HÀNH VI CẢN TRỞ TÁC NGHIỆP BÁO CHÍ
  7. Họ tên Các đơn vị công tác đã qua Chuyên môn hiện tại Báo Khoa Học & Đời Sống, Mai Phan Lợi báo Nhà Báo & Công Luận, Quản lý tòa soạn báo báo Pháp Luật TP.HCM Thanh tra Bộ VH-TT; Thanh Ngô Huy Toàn Thanh tra Báo chí tra Bộ TT-TT Cục An ninh Tư tưởng - Văn Lưu Đình Phúc Quản lý báo chí hóa; Cục Báo chí VKSND tỉnh Hưng Yên, Vụ Nguyễn Văn Hiếu Pháp chế Bộ VH-TT, Cục Quản lý báo chí Báo chí Báo điện tử VnExpress; Phạm Đoan Đài TH VTC, báo điện tử Nhà báo Trang VietNamNet, báo Pháp Luật TP.HCM Tạp chí Nghề Luật, báo điện Hoàng Nghĩa tử VnExpress, báo Pháp Luật Thư ký tòa soạn báo Nhân TP.HCM Lê Khánh Duy Báo điện tử VietNamNet Nhà báo III. PHẠM VI, ĐỐI TƯỢNG, THỜI GIAN, PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Dự án được ký kết ngày 20/6/2011, nhưng đã được nhóm thành viên RED khởi động từ rất sớm. Sau khi văn kiện dự án được phê duyệt, từ 1/7/2011 đến 15/8/2011, việc khảo sát được tiến hành theo hai hình thức: - Khảo sát trực tuyến trên 6 báo điện tử (VietNamNet, VTC News, Dân Việt, Thanh Niên online, Pháp luật TP.HCM online, Người Lao Động online) với nhóm bạn đọc và nội dung được xác định trước. - Khảo sát trực tiếp với 384 người đang trực tiếp hành nghề báo chí theo bảng câu hỏi có sẵn (bảng hỏi định lượng); phỏng vấn trực tiếp (bảng hỏi định tính có ghi danh) 60 nhà báo, cán bộ liên quan đến tác nghiệp báo chí xung quanh chủ đề cản trở nhà báo tác nghiệp. Trong quá trình này, nhóm nghiên cứu đã trực tiếp thực hiện điều tra khảo sát tại một số địa bàn trọng điểm đối với tác nghiệp báo chí BÁO CÁO KHẢO SÁT, NGHIÊN CỨU VỀ CÁC HÀNH VI CẢN TRỞ TÁC NGHIỆP BÁO CHÍ 7
  8. như Lạng Sơn, Quảng Ninh, Đà Nẵng, Quảng Nam, Tây Nguyên, TP.HCM và Cần Thơ. Một số địa bàn “nóng” khác cũng được các điều tra viên, cộng tác viên của RED trực tiếp khảo sát, như Hải Phòng, Nghệ An, Huế, Bình Thuận. Trong cuộc khảo sát trực tiếp 384 người làm báo (gồm cả nhà báo – đã có thẻ, và phóng viên – chưa được cấp thẻ), để đảm bảo tính đại diện, RED cố gắng duy trì một tỷ lệ thích hợp, cân đối giữa các nhóm tuổi, kinh nghiệm làm nghề và loại hình báo chí, như trong các bảng dưới đây. Độ tuổi của các phóng viên, nhà báo tham gia khảo sát cũng là một thông số cần chú ý, bởi vì trong nghề báo, độ tuổi có mối liên hệ rất chặt chẽ với trình độ chuyên môn, kinh nghiệm làm việc, trong đó có cả kỹ năng ứng xử khi tác nghiệp, nhất là trong những tình huống khó khăn. 8 BÁO CÁO KHẢO SÁT, NGHIÊN CỨU VỀ CÁC HÀNH VI CẢN TRỞ TÁC NGHIỆP BÁO CHÍ
  9. Tương tự, một thông số khác là số năm kinh nghiệm làm việc, cũng là một yếu tố có tác động mạnh tới trình độ chuyên môn, kỹ năng tác nghiệp của phóng viên, nhà báo, nhất là trong tình huống khó khăn. Một thông số quan trọng mà nhóm tiến hành điều tra khảo sát tính đến là tỷ lệ người làm báo có và không có thẻ nhà báo. Điều này sở dĩ quan trọng vì trong luật pháp cũng như trong nhận thức của xã hội, nhà báo phải là người “đang hoạt động hoặc công tác thường xuyên với một cơ quan báo chí Việt Nam và được cấp thẻ nhà báo”. Người chưa/không được cấp thẻ thì không được công nhận là nhà báo. Thế nhưng trên thực tế, như các phần sau trong báo cáo sẽ cho thấy, một tỷ lệ rất lớn người bị cản trở trong lúc tác nghiệp báo chí lại là những người không có thẻ. Từ đây đặt ra vấn đề cần làm gì để bảo vệ quyền lợi của những người tác nghiệp báo chí chính đáng, đúng luật pháp mà lại chưa/không có thẻ nhà báo. BÁO CÁO KHẢO SÁT, NGHIÊN CỨU VỀ CÁC HÀNH VI CẢN TRỞ TÁC NGHIỆP BÁO CHÍ 9
  10. Ngoài ra, nhóm nghiên cứu còn tiến hành thu thập tài liệu, khảo sát, phân tích sâu về các nhóm đề tài: thực trạng việc sử dụng công cụ pháp lý (hành chính, hình sự) trong việc bảo vệ quyền tác nghiệp của nhà báo; việc thực hiện Quy chế phát ngôn và cung cấp thông tin theo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ; thực trạng cản trở tác nghiệp báo chí liên quan đến mảng phòng chống tham nhũng và tài nguyên môi trường; vai trò của hội nghề nghiệp trong bảo vệ quyền tác nghiệp báo chí; sự quan tâm của một cơ quan báo chí (Pháp Luật TP.HCM) đối với đề tài cản trở tác nghiệp báo chí; kinh nghiệm nước ngoài xử lý các hành vi cản trở nhà báo tác nghiệp. 10 BÁO CÁO KHẢO SÁT, NGHIÊN CỨU VỀ CÁC HÀNH VI CẢN TRỞ TÁC NGHIỆP BÁO CHÍ
  11. PHẦN A THỰC TRẠNG TÌNH HÌNH VÀ CÁC BIỆN PHÁP ĐÃ ĐƯỢC ÁP DỤNG I. Quá trình nghiên cứu trước đây – Các định nghĩa đã có về “cản trở tác nghiệp báo chí” Cho đến nay, ở Việt Nam, chưa từng có một đề tài nghiên cứu nào cụ thể hóa về “cản trở tác nghiệp báo chí”, cho nên cũng chưa có định nghĩa nào của giới nghiên cứu về khái niệm này. Gần đây nhất, Nghị định 02/2011/NĐ-CP của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động báo chí-xuất bản, ký ngày 6/1/2011, tại Điều 6, có nhắc tới một định nghĩa về “hành vi cản trở bất hợp pháp hoạt động báo chí”: 1. Phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng đối với hành vi xúc phạm danh dự, nhân phẩm của nhà báo khi đang hoạt động BÁO CÁO KHẢO SÁT, NGHIÊN CỨU VỀ CÁC HÀNH VI CẢN TRỞ TÁC NGHIỆP BÁO CHÍ 11
  12. nghiệp vụ đúng pháp luật. 2. Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng đối với hành vi cản trở nhà báo hoạt động nghề nghiệp đúng pháp luật. 3. Phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau: a) Đe dọa, uy hiếp tính mạng nhà báo; b) Hủy hoại, cố ý làm hư hỏng hoặc thu giữ trái phép phương tiện, tài liệu hoạt động báo chí của nhà báo. Bên cạnh Điều 6, khoản 1 Điều 8 của Nghị định này có nêu các hành vi vi phạm quy định về cung cấp thông tin cho báo chí, theo đó: 1. Phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau: a) Cản trở việc cung cấp thông tin cho báo chí của tổ chức, công dân; b) Không cung cấp thông tin cho báo chí theo quy định tại Điều 7 Luật Báo chí (Điều 7 Luật Báo chí quy định: “Trong phạm vi quyền hạn, nhiệm vụ của mình, các tổ chức có quyền và nghĩa vụ cung cấp thông tin cho báo chí, giúp cho báo chí thông tin chính xác, kịp thời và chịu trách nhiệm trước pháp luật về nội dung thông tin”). Như vậy, Nghị định đã gián tiếp định nghĩa cản trở tác nghiệp báo chí bao gồm: hành vi xúc phạm danh dự, nhân phẩm của nhà báo khi đang hoạt động nghiệp vụ đúng pháp luật; hành vi cản trở nhà báo hoạt động nghề nghiệp đúng pháp luật; đe dọa, uy hiếp tính mạng nhà báo; hủy hoại, cố ý làm hư hỏng hoặc thu giữ trái phép phương tiện, tài liệu hoạt động báo chí của nhà báo; không cung cấp thông tin cho báo chí theo quy định của Luật Báo chí. Song ở đây lại có vướng mắc. Nhà báo, theo định nghĩa từ Luật Báo chí năm 1989, thì “phải là người có quốc tịch Việt Nam, có địa chỉ thường trú tại Việt Nam, có đủ các tiêu chuẩn chính trị, đạo đức và nghiệp vụ báo chí do Nhà nước quy định, đang hoạt động hoặc công tác thường xuyên với một cơ quan báo chí Việt Nam và được cấp thẻ nhà báo”. Có thể thấy định nghĩa này hạn chế nội hàm của khái niệm nhà báo ở việc định ra một tiêu chuẩn là nhà báo phải là người được cấp thẻ. 12 BÁO CÁO KHẢO SÁT, NGHIÊN CỨU VỀ CÁC HÀNH VI CẢN TRỞ TÁC NGHIỆP BÁO CHÍ
  13. Với cách tiếp cận như vậy, ở Việt Nam những người hoạt động báo chí thường xuyên và xem đó là sự nghiệp chính, mang lại nguồn thu nhập chủ yếu… có thể được phân chia ra thành hai nhóm: nhà báo (có thẻ) và không phải nhà báo (không có thẻ). Nhóm “không phải nhà báo” bao gồm phóng viên, cộng tác viên. Căn cứ Điều 6 Nghị định 02 đã nói trên, thì nhóm này không phải là đối tượng được xét đến trong việc xử lý các hành vi cản trở bất hợp pháp hoạt động báo chí. Việc không đưa ra một định nghĩa bao hàm cả những người không có thẻ mà thực chất vẫn hoạt động báo chí thường xuyên như sự nghiệp chính không làm chúng ta bác bỏ được một thực tế, là trong những vụ cản trở tác nghiệp báo chí ở Việt Nam nhiều năm qua, có không ít trường hợp nạn nhân là phóng viên, cộng tác viên của báo chí. Không có số liệu thống kê chính thức nhưng từ thực tế khảo sát, có thể nhận định rằng số “không có thẻ” chiếm tỷ lệ rất đáng kể trong các nạn nhân của hành vi cản trở tác nghiệp báo chí (sẽ phân tích rõ hơn trong phần sau). Tuy vậy, do không được thừa nhận là nhà báo nên những nạn nhân này không nhận được sự chú ý cần thiết của dư luận (thông qua chính kênh báo chí) cũng như sự bảo vệ từ pháp luật. Điều đó, đến lượt nó, có nguy cơ gây cho những đối tượng cản trở tâm lý xem thường và “bắt nạt” những người tuy vẫn hành nghề báo chí nhưng không có thẻ. BÁO CÁO KHẢO SÁT, NGHIÊN CỨU VỀ CÁC HÀNH VI CẢN TRỞ TÁC NGHIỆP BÁO CHÍ 13
  14. Từ điển tiếng Việt của Trung tâm Từ điển học, NXB Đà Nẵng, HỘP 1: 2011, định nghĩa “cản trở” là “gây trở ngại, làm cho không tiến hành được dễ dàng”. Một tài liệu khác – Dự án Từ điển tiếng Việt, truy cập tại địa chỉ http://www.informatik.uni- leipzig.de/~duc/Dict/ định nghĩa động từ hoặc danh từ “cản trở” là “gây khó khăn trở ngại, làm cho không tiến hành được dễ dàng, suôn sẻ, ví dụ cản trở giao thông, công việc bị cản trở, cản trở sự tiến bộ”. II. Một số vụ cản trở tác nghiệp điển hình trong hai năm qua Do số lượng các vụ cản trở quá nhiều, tính chất phức tạp, diễn ra trên địa bàn quá rộng lớn (cả nước), nên khi thực hiện báo cáo này, chúng tôi chọn một giai đoạn cụ thể để khảo sát. Theo nhận định của đa số nhà báo mà chúng tôi tiếp xúc, thì khoảng thời gian từ năm 2008 đến nay, có thể do có những diễn biến phức tạp về kinh tế - chính trị - xã hội mà báo chí vẫn bám sát, nên tình hình hoạt động báo chí ở Việt Nam có xu hướng biến động theo hướng bất an hơn cho nhà báo. Số vụ cản trở xảy ra ngày một nhiều (so với thời gian trước đó), và ở nhiều vụ, tính chất cũng nghiêm trọng hơn. Để nghiên cứu được tập trung hơn, chúng tôi lựa chọn thời gian khảo sát là trong hai năm trở lại đây. Ở mức độ nào đó, tất cả các vụ cản trở tác nghiệp báo chí đều nghiêm trọng bởi nó thể hiện sự coi thường pháp luật, xâm phạm quyền hành nghề vì nhiệm vụ công của cá nhân khác. Tuy nhiên, cũng để hạn chế bớt quy mô quá dàn trải nên chúng tôi chỉ lựa chọn những vụ việc nghiêm trọng theo nghĩa được công luận nhắc đến thông qua phương tiện thông tin đại chúng. Các nạn nhân của hành vi cản trở cũng được xác định là người làm báo (có thẻ hoặc không có thẻ) bị cản trở trong lúc đang tác nghiệp hợp pháp hoặc gần như sau khi vừa tác nghiệp xong, cho thấy có dấu hiệu liên quan. Vì lý do này, chúng tôi sẽ không xét đến ở đây những vụ việc tuy cũng rất nghiêm trọng nhưng lại không diễn ra nhằm vào nhà báo đang tác nghiệp hợp pháp, và không có bằng chứng cho thấy có liên quan trực tiếp với hoạt động tác nghiệp của nhà báo; chẳng hạn vụ việc nhà báo Hoàng Hùng (Người Lao Động) bị phóng hỏa tại nhà riêng trong đêm 19/1/2011, gây xôn xao dư luận. 14 BÁO CÁO KHẢO SÁT, NGHIÊN CỨU VỀ CÁC HÀNH VI CẢN TRỞ TÁC NGHIỆP BÁO CHÍ
  15. Trong hai năm qua, trên toàn quốc, đã có nhiều vụ cản trở tác nghiệp được phản ánh trên báo chí: - Phóng viên Minh Sơn (báo Người Lao Động) bị ném đá vào kính xe ô-tô (tại Đồng Nai, ngày 24/7/2011); - Hai phóng viên Phạm Hồng Phong (Truyền hình Kỹ thuật số VTC) và Lê Duy Khánh (truyền hình ATV của báo An Ninh Thủ Đô) bị côn đồ chửi bới, đấm vào mặt, bóp cổ… (Hà Nội, ngày 14/6/2011); - Nhà báo Võ Thanh Mai (báo Nông Nghiệp Việt Nam) bị tấn công bằng dao (Nghệ An, ngày 30/5/2011); - Phóng viên Trần Công Lũy (báo Công Lý) bị tấn công, còng tay, giật camera, dẫn giải như tội phạm (An Giang, ngày 29/5/2011); - Nhà báo Nguyễn Hồng Cơ (báo Pháp luật Việt Nam) bị hành hung, dọa giết (Thủ Đức, ngày 21/5/2011); - Nhà báo Đặng Ngọc Như (báo Công an Nhân dân) bị một nhóm đối tượng ném chất thải pha nhớt vào nhà riêng (Gia Lai, 16/5/2011); - Phóng viên Duy Bùi (báo Thể thao 24h) bị bảo vệ sân Thiên Trường hành hung, bẻ tay, giật máy ảnh và xóa ảnh (Nam Định, ngày 15/4/2010); - Hai phóng viên Thái Duy và Mỹ Phương (Đài Phát thanh Truyền hình Bình Dương) bị chủ, nhân viên quán café Karum-Kim hành hung, giật máy quay phim (Bình Dương, 5/4/2010); - Nhóm nhân viên sản xuất chương trình truyền hình thuộc Công ty cổ phần Truyền thông Việt Nam (VBC) bị bảo vệ của Tập đoàn kinh tế Vinashin hành hung, thu giữ máy quay (Hà Nội, ngày 30/3/2010); - Hai phóng viên Huỳnh Lộc và Hàn Giang (báo Pháp Luật TP.HCM) bị côn đồ hành hung, giật và phá máy ảnh (Long An, ngày 21/3/2010); - Nhà báo Ngô Mai Phong (báo Lao Động) bị một số đối tượng BÁO CÁO KHẢO SÁT, NGHIÊN CỨU VỀ CÁC HÀNH VI CẢN TRỞ TÁC NGHIỆP BÁO CHÍ 15
  16. không rõ danh tính đe dọa (khoảng tháng 3/2010). - Phóng viên Cẩm Châu (báo Nông Thôn Ngày Nay) bị một nhóm người hành hung và bắt giữ làm con tin suốt 7 tiếng đồng hồ (Quảng Nam, ngày 10/1/2010); - Nhà báo Võ Minh Châu (báo Tiền Phong) bị em trai Chủ tịch xã đánh trọng thương (Hà Tĩnh, ngày 6/1/2010); - Nhà báo Trần Thế Dũng (báo Người Lao Động) bị một nhóm buôn lậu hành hung dã man, sát biên giới Lạng Sơn (ngày 6/1/2010). Đặc biệt, trong quá trình nhóm nghiên cứu chuẩn bị báo cáo này, chỉ tính từ cuối tháng 8 đến đầu tháng 10/2011, đã xảy ra một loạt vụ cản trở nhà báo tác nghiệp, mà không phải vụ nào cũng được phản ánh trên báo: - Ngày 2/10, nhà báo Vũ Tiến Dũng (Đài PTTH Lào Cai) nhận được hai tin nhắn đến máy di động cá nhân của mình, có nội dung đe dọa: “Thằng Dũng kia, đợt này mày chết rồi con ạ... Tao chỉ khóc thương cho mày khi vợ trẻ, con thơ...”. Sáng 5/10, anh Dũng đã gửi đơn tới Công an tỉnh Lào Cai và Hội Nhà báo tỉnh Lào Cai đề nghị được bảo vệ. Trước đó ít ngày, anh có làm loạt phóng sự truyền hình về việc một doanh nghiệp tư nhân cung cấp cơm hộp không bảo đảm an toàn vệ sinh thực phẩm cho học sinh bán trú trường tiểu học Lê Văn Tám ở TP Lào Cai. - Khoảng 21h30 ngày 2/10, tại huyện Đồng Phú – Bình Phước, phóng viên Đ.T.T. (phân xã Bình Phước, TTXVN) bất ngờ bị hai thanh niên dùng ống tuýp sắt tấn công. Phóng viên T. kịp chạy thoát. Không tìm được anh, nhóm tấn công quay lại đập phá xe máy của bạn anh. Trước đó, vào ngày 1-2/10, phóng viên này có đăng hai bản tin trên VietNam Plus về việc ông Lê Văn Bắc, Phó trưởng Công an xã Tân Lập, cùng một công an viên và hai dân quân tự vệ chặn người đi đường, lập biên bản vi phạm hành chính, sau đó tự ra quyết định trái pháp luật để tạm giữ xe máy của công dân. - Ngày 30/9, phóng viên Trương Hồng Sơn (báo Đất Việt, thường trú tại Quảng Nam) bị một số điện thoại lạ gọi đến dọa giết. Sự việc xảy ra thường xuyên, đến ngày 4/10., phóng viên Trương Hồng Sơn phải 16 BÁO CÁO KHẢO SÁT, NGHIÊN CỨU VỀ CÁC HÀNH VI CẢN TRỞ TÁC NGHIỆP BÁO CHÍ
  17. gửi đơn kêu cứu đến cơ quan chức năng. - Phóng viên báo Lao Động đang tác nghiệp tại tại hiện trường một vụ tai nạn giao thông thì bị ông Hồ Xuân Thành – người gây tai nạn, cán bộ trung tâm văn hóa huyện Quỳnh Lưu – dọa giết và dùng nhiều lời lẽ thô tục xúc phạm, cương quyết ngăn cản việc tác nghiệp của phóng viên ngay trước mặt cảnh sát giao thông. - Chiều 1/9, được sự đồng ý của Giám đốc Khu chứng tích Sơn Mỹ, hai phóng viên Giang Văn Hải và Đào Hồng Quân (Đài Truyền hình Kỹ thuật số VTC) đã thực hiện ghi hình ảnh và phỏng vấn nhân chứng của vụ thảm sát Mỹ Lai. Trong khi họ đang tác nghiệp, ông Giám đốc Khu chứng tích Sơn Mỹ đột ngột quát mắng, vô cớ lập biên bản thu giữ máy quay phim của hai phóng viên. - Nhà báo Hữu Toàn (báo Công An Nhân Dân) bị một đối tượng đe dọa và xúc phạm danh dự sau khi báo Công An Nhân Dân số ra ngày 25/8 đăng bài “Một người mẹ liệt sĩ bị con ngược đãi”. BÁO CÁO KHẢO SÁT, NGHIÊN CỨU VỀ CÁC HÀNH VI CẢN TRỞ TÁC NGHIỆP BÁO CHÍ 17
  18. Khoảng 7h40 ngày 30/5/2011, trong khi đang đổ xăng tại cây HỘP 2: xăng ở góc đường Nguyễn Thị Minh Khai và Lê Hồng Phong (TP Vinh, Nghệ An), nhà báo Võ Thanh Mai - phóng viên thường trú Báo Nông nghiệp Việt Nam tại Nghệ An - bất ngờ bị hai đối tượng bịt mặt lao vào tấn công bằng dao. Ngay sau đó cả hai đối tượng lên xe máy tẩu thoát. Nhà báo Thanh Mai được người dân đưa vào Bệnh viện Thành An - Sài Gòn cấp cứu. Bác sĩ Nguyễn Văn Vinh - khoa Hồi sức Cấp cứu - cho biết: “Khi được đưa vào bệnh viện, nạn nhân trong tình trạng mất máu nhiều với vết thương ở vai, tay. Chúng tôi đã tiến hành khâu 21 mũi”. Được biết, trong thời gian gần đây, nhà báo Thanh Mai có đăng một số bài viết phản ánh tình trạng tiêu cực ở Nghệ An, có thể đây là nguyên nhân khiến anh bị chém để “dằn mặt”. (Sài Gòn Giải Phóng, 30/5/2011) Tổng cộng, có 12 vụ cản trở với tính chất nghiêm trọng được báo chí phản ánh. Trong đó, 7 vụ nhằm vào các nạn nhân là người tuy hoạt động báo chí nhưng lại không được cấp thẻ nhà báo, do đó không được công nhận là nhà báo. Một vụ việc được nhắc tới với liều lượng cao hơn các vụ khác (số lượng tin bài nhiều hơn trong thời gian dài hơn), là trường hợp nhà báo Trần Thế Dũng của báo Người Lao Động bị hành hung tại Lạng Sơn, sát gần một điểm nóng về buôn lậu xuyên biên giới. Nhóm buôn lậu hành hung tập thể nhà báo Trần Thế Dũng, sau đó công khai đưa nạn nhân đến đồn công an rồi bỏ đi, thể hiện một sự ngang nhiên coi thường pháp luật, coi thường công dân. Bệnh án của bệnh viện Việt Đức (Hà Nội) ghi rõ anh Dũng bị “chẩn đoán chấn thương sọ não kín, tụ máu quanh hốc mắt hai bên, tụ máu xung huyết hai mắt”… Sau hơn hai tháng, cơ quan Cảnh sát Điều tra huyện Cao Lộc, Lạng Sơn đã ra quyết định không khởi tố hình sự vụ hành hung nhà báo này khiến lãnh đạo nhiều cơ quan Trung ương phải bày tỏ thái độ. Sau đó, do sức ép từ Trung ương, công an tỉnh Lạng Sơn mới khởi tố vụ án, nhưng mới đây lại đã quyết định đình chỉ điều tra. Một vụ việc khác cũng gây thương tích cho nạn nhân (tỷ lệ thương 18 BÁO CÁO KHẢO SÁT, NGHIÊN CỨU VỀ CÁC HÀNH VI CẢN TRỞ TÁC NGHIỆP BÁO CHÍ
  19. tật 3%) là trường hợp nhà báo Võ Minh Châu của báo Tiền Phong. Các vụ khác mang tính chất xúc phạm danh dự, nhân phẩm: Phóng viên Trần Công Lũy bị còng tay, giật camera, áp giải giữa Hội chợ Thương mại Quốc tế ĐBSCL; phóng viên Duy Bùi bị bẻ tay, giật máy và xóa ảnh, áp giải trước mắt hàng nghìn cổ động viên trên sân Thiên Trường… Tương tự vụ việc của nhà báo Trần Thế Dũng, đây được coi là một trường hợp trong đó cơ quan chức năng không có sự xử lý thỏa đáng để bảo vệ quyền lợi cho nạn nhân, đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật. Nhà báo Ngô Mai Phong (báo Lao Động) sau khi viết loạt bài (đăng trên Lao Động, tháng 3/2010) phản ánh về hoạt động khai thác than trái phép diễn ra công khai tại Quảng Ninh trong những ngày Tết Nguyên đán Canh Dần (12-19/2/2010), đã bị những đối tượng lạ mặt nhắn tin khủng bố, đe dọa. Nhà báo Ngô Mai Phong báo cáo với cơ quan chức năng tỉnh Quảng Ninh (tháng 6/2011). Tuy nhiên, chỉ không đầy một tuần sau, vào ngày 18/6/2010, trên Cổng Thông tin Điện tử tỉnh Quảng Ninh và báo Công an Nhân dân, đã xuất hiện tin “Phóng viên báo Lao Động bị đe dọa sát hại là không có thật”, bác bỏ hoàn toàn việc ông Phong báo cáo, ngoài ra còn công khai danh tính nhà báo và các nguồn cung cấp thông tin cho ông Ngô Mai Phong. Vụ việc hai phóng viên Phạm Hồng Phong (Truyền hình Kỹ thuật số VTC) và Lê Duy Khánh (truyền hình ATV thuộc báo An Ninh Thủ Đô) bị côn đồ chửi bới, đấm vào mặt, bóp cổ… (ngày 14/6/2011), thủ phạm được xác định là Trần Xuân Thanh (SN 1975, trú tại xã Phú Diễn, huyện Từ Liêm, Hà Nội). Ngày 29/9/2011, Tòa án Nhân dân huyện Từ Liêm đã mở phiên tòa xét xử Trần Xuân Thanh và tuyên phạt Thanh 6 tháng tù giam, về tội “Chống người thi hành công vụ”. Đây là một trong số ít trường hợp được xử lý nhanh, trong đó lý do quan trọng là hai phóng viên này được cơ quan nhà nước trưng tập đi làm nhiệm vụ, họ được coi là thi hành công vụ. (Xem thêm chương IV, mục 1.2, “Hoạt động báo chí – công vụ hay không công vụ?”). III. Một số kết quả khảo sát đáng chú ý Như đã trình bày tại phần I. (Quá trình nghiên cứu trước đây – Các định nghĩa đã có về “cản trở tác nghiệp báo chí”), cho đến nay chưa BÁO CÁO KHẢO SÁT, NGHIÊN CỨU VỀ CÁC HÀNH VI CẢN TRỞ TÁC NGHIỆP BÁO CHÍ 19
  20. có một định nghĩa chính xác về “thế nào là cản trở tác nghiệp báo chí”. Do vậy, trong khuôn khổ dự án “Nghiên cứu - truyền thông về các hành vi cản trở tác nghiệp báo chí”, chúng tôi đã cố gắng để đạt tới một định nghĩa đầy đủ về khái niệm này, thông qua một cuộc khảo sát với quy mô 384 người làm báo trên toàn quốc. Các câu hỏi nhằm xác định bốn vấn đề sau: - Nhận diện hành vi cản trở báo chí - Quan niệm, nhận thức của người làm báo về hành vi cản trở tác nghiệp báo chí - Hậu quả của hành vi cản trở tác nghiệp báo chí - Định nghĩa rút ra về “thế nào là cản trở tác nghiệp báo chí”. III.1. Các hình thức cản trở Các hành vi cản trở báo chí rất đa dạng. Trong khuôn khổ dự án, chúng tôi tập trung liệt kê một số hành vi được các nhà báo, phóng viên cho là phổ biến nhất và bản thân họ cũng gặp phải nhiều nhất. Nói cách khác, câu hỏi được chia thành hai phần chính: l Phần các nhà báo, phóng viên nhận diện hành vi cản trở (theo bạn, như thế nào thì gọi là hành vi cản trở tác nghiệp báo chí); l Phần các nhà báo, phóng viên chia sẻ thực tế họ đã trải qua (bạn đã bị cản trở chưa và bị cản trở như thế nào) Với câu hỏi “Bạn đã từng bị cản trở trong quá trình tác nghiệp chưa?”, chúng tôi nhận được câu trả lời “Có” từ 327 trên tổng số 384 phóng viên, nhà báo được hỏi, nghĩa là một tỷ lệ rất cao (87,90%). 20 BÁO CÁO KHẢO SÁT, NGHIÊN CỨU VỀ CÁC HÀNH VI CẢN TRỞ TÁC NGHIỆP BÁO CHÍ
nguon tai.lieu . vn