Xem mẫu

nghiªn cøu - trao ®æi au thời gian xem xét, hoàn thiện pháp luật trong nước cho phù hợp với Công ước về bảo vệ trẻ em và hợp tác trong lĩnh vực con nuôi quốc tế, ngày 7/12/2010, Việt Nam đã kí Công ước này. Việc Việt Nam kí TS.NguyÔn Hång B¾c* a. Nguyên tắc cơ bản giải quyết nuôi con nuôi Những nguyên tắc cơ bản của Công ước Lahay năm 1993 được coi là những quy định bắt buộc, có giá trị ràng buộc chung đối với gia nhập Công ước này đánh dấu bước tiến tất cả các quốc gia thành viên. Những quan trọng trong việc từng bước hội nhập vào khuôn khổ hợp tác đa phương về tư pháp quốc tế mà trước hết là việc thực hiện Công ước về bảo vệ trẻ em và hợp tác trong lĩnh nguyên tắc đó được đề cập trong phần đầu tiên của Công ước, bao gồm cả các nguyên tắc được công nhận trong các văn kiện pháp lí quốc tế, đặc biệt là Công ước của Liên hợp vực con nuôi quốc tế. Cùng với việc Luật quốc về quyền trẻ em ngày 20/11/1989 và nuôi con nuôi có hiệu lực từ ngày 01/01/2011, việc kí Công ước này chắc chắn tạo ra khuôn khổ pháp luật đồng bộ, điều chỉnh cả vấn đề nuôi con nuôi trong nước và nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài vì lợi ích cao nhất của trẻ em, trong đó có trẻ em Việt Nam.(1) Công ước Lahay năm 1993 được thông qua ngày 29/5/1993, có hiệu lực từ ngày 01/5/1995. Tính đến năm 2010 đã có 81 quốc gia và vùng lãnh thổ là thành viên của Công ước. Một số nước châu Á như Trung Quốc, Campuchia, Thái Lan, Philippines, Mông Cổ, Ấn Độ… đã trở thành thành viên của Công ước này. Công ước gồm lời nói đầu, 7 chương, 48 điều đề cập các vấn đề cơ bản sau: Nguyên tắc giải quyết nuôi con nuôi; điều kiện nuôi con nuôi; cơ quan có thẩm quyền giải quyết việc nuôi con nuôi; công nhận và hệ quả pháp lí của việc nuôi con nuôi; trình tự, thủ tục giải quyết nuôi con nuôi. 10 Tuyên bố của Liên hợp quốc về các nguyên tắc xã hội và pháp lí liên quan đến việc bảo vệ và phúc lợi trẻ em, Chỉ dẫn đặc biệt về việc bảo trợ, nuôi con nuôi trong nước và nước ngoài (Nghị quyết của Đại hội đồng số 41/86 ngày 3/12/1986). Các nguyên tắc cơ bản được Công ước ghi nhận bao gồm: - Tôn trọng và bảo vệ các quyền cơ bản của trẻ em; mọi chính sách pháp luật đều phải vì lợi ích tốt nhất của trẻ em và thúc đẩy việc thực hiện quyền của trẻ em; - Tôn trọng quyền ưu tiên đối với trẻ em là được cha mẹ đẻ chăm sóc; - Nếu vì lí do nào đó mà trẻ em không được cha mẹ đẻ chăm sóc thì cơ quan, tổ chức có thẩm quyền có trách nhiệm bảo vệ trẻ em và xem xét tất cả những giải pháp khác nhau * Giảng viên chính Khoa pháp luật quốctế Trường Đại học Luật Hà Nội T¹p chÝ luËt häc sè 4/2011 nghiªn cøu - trao ®æi để trẻ em được chăm sóc, nuôi dưỡng tại Đồng thời, để đảm bảo thực hiện việc quốc gia mình; nếu các giải pháp này không thực hiện được thì có thể tìm kiếm giải pháp nuôi con nuôi vì lợi ích tốt nhất của đứa trẻ, pháp luật Việt Nam còn đưa ra nguyên tắc thay thế như nuôi con nuôi, giám hộ hoặc trong việc xác định thứ tự ưu tiên lựa chọn chăm sóc ở trung tâm bảo trợ xã hội; gia đình thay thế cho trẻ. Theo Điều 5 Luật - Chỉ cho phép những người ngoài gia nuôi con nuôi, thứ tự ưu tiên lựa chọn gia đình ruột thịt của trẻ em nhận trẻ em làm con nuôi, nếu không có khả năng tìm thấy một nơi ở phù hợp cho trẻ em ngay từ gia đình gốc của mình; - Việc nuôi con nuôi phải làm phát sinh đầy đủ quan hệ cha mẹ và con theo pháp luật; - Ưu tiên thu xếp cho trẻ em làm con nuôi trong nước; việc cho trẻ em làm con nuôi ở nước ngoài chỉ được coi là giải pháp cuối cùng, sau khi chắc chắn rằng không thể tìm được gia đình thay thế cho trẻ em ngay tại nước mình; - Nghiêm cấm mọi việc thu lợi bất minh từ việc cho trẻ em làm con nuôi; mọi hành vi lạm dụng và buôn bán trẻ em phải bị xử lí nghiêm minh. Như vậy, Công ước đã đề cập các nguyên tắc bảo vệ trẻ em, bảo đảm các quyền, lợi ích tốt nhất cho trẻ. So sánh với pháp luật Việt Nam cho thấy pháp luật Việt Nam cũng có những nguyên tắc nhìn chung phù hợp với các nguyên tắc của Công ước Lahay. Tại Điều 4 Luật nuôi con nuôi năm 2010, việc nuôi con nuôi được thực hiện theo nguyên tắc sau: - Khi giải quyết việc nuôi con nuôi, cần tôn trọng quyền của trẻ em được sống trong môi trường gia đình gốc. - Việc nuôi con nuôi phải bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của người được nhận làm con nuôi và người nhận con nuôi, tự nguyện, bình đẳng, không phân biệt nam nữ, không trái pháp luật và đạo đức xã hội. - Chỉ cho làm con nuôi người ở nước ngoài khi không thể tìm được gia đình thay thế ở trong nước. T¹p chÝ luËt häc sè 4/2011 đình thay thế cho trẻ được thực hiện như sau: a) Cha dượng, mẹ kế, cô, cậu, dì, chú, bác ruột của người được nhận làm con nuôi; b) Công dân Việt Nam thường trú ở trong nước; c) Người nước ngoài thường trú ở Việt Nam; d) Công dânViệt Nam định cư ở nước ngoài; đ) Người nước ngoài thường trú ở nước ngoài. Trường hợp có nhiều người cùng hàng ưu tiên xin nhận một người làm con nuôi thì xem xét, giải quyết cho người có điều kiện nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con nuôi tốt nhất. b. Điều kiện nuôi con nuôi Khi xem xét điều kiện nuôi con nuôi cần xem xét dưới 2 khía cạnh: Điều kiện đối với người nhận nuôi và điều kiện đối với con nuôi. Thứ nhất, điều kiện đối với người nhận nuôi Điều 2 Công ước quy định Công ước được áp dụng khi trẻ em và cha mẹ nuôi thường trú tại các quốc gia thành viên khác nhau mà không áp dụng khi trẻ em và cha mẹ nuôi cùng thường trú tại một quốc gia thành viên, cũng như cha mẹ nuôi thường trú ở một quốc gia không phải thành viên Công ước và ngược lại. Công ước quy định: việc nuôi con nuôi chỉ được chấp nhận đối với người xin nhận con nuôi là một cặp vợ chồng hoặc một người đã hoặc chưa thành hôn; mọi trường hợp nuôi con nuôi phải làm phát sinh quan hệ cha mẹ và con, không phụ thuộc vào việc quan hệ của trẻ em đã cho làm con nuôi với cha mẹ đẻ đã chấm dứt hay chưa. 11 nghiªn cøu - trao ®æi Theo Điều 4 của Công ước, cơ quan có thẩm quyền để xác nhận điều kiện đối với cha mẹ nuôi tương lai để được nhận nuôi trẻ em là cơ quan có thẩm quyền của nước nhận. Nước nhận có trách nhiệm xác nhận cha mẹ nuôi tương lai có đủ tư cách và thích hợp để nhận nuôi. Theo Điều 28 khoản 1 Luật nuôi con nuôi năm 2010, người nước ngoài phải thường trú ở nước cùng là thành viên của điều ước quốc tế về nuôi con nuôi với Việt Nam mới được nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi. Thứ hai, điều kiện đối với con nuôi nuôi con nuôi, đảm bảo rằng cha mẹ nuôi tương Công ước quy định việc nuôi con nuôi lai đã được tham vấn ở mức độ cần thiết và xác nhận trẻ em được hoặc sẽ được phép nhập cảnh và thường trú tại quốc gia đó. Phù hợp với quy định của Công ước, pháp luật Việt Nam quy định: người nhận nuôi có thể là một người hoặc hai vợ, chồng. Nếu là được áp dụng đối với trẻ em dưới 18 tuổi (Điều 3). Theo hướng dẫn của Uỷ ban thường trực Công ước Lahay thì quy định của Công ước chỉ nhằm mục đích xác định phạm vi áp dụng của Công ước, không có ý tạo lập độ tuổi của trẻ em được nhận làm con nuôi. Khả hai vợ chồng thì phải có hôn nhân hợp pháp năng trẻ em được cho làm con nuôi cũng và khác giới tính (Điều 36 Nghị định số như các điều kiện cụ thể là do pháp luật của 68/2002/NĐ-CP). Ngoài ra, pháp luật Việt nước gốc quy định. Nếu pháp luật nước gốc Nam còn quy định điều kiện đối với người nhận nuôi. Theo đó, Người Việt Nam định cư ở nước ngoài, người nước ngoài thường trú ở cho trẻ em làm con nuôi ở độ tuổi thấp hơn, ví dụ từ 15 tuổi trở xuống thì pháp luật của nước gốc sẽ được áp dụng mà không tính nước ngoài nhận người Việt Nam làm con đến Điều 3 của Công ước. nuôi phải có đủ các điều kiện theo quy định của pháp luật nước nơi người đó thường trú và quy định tại Điều 14 của Luật nuôi con nuôi năm 2010. Cụ thể: Người nhận con nuôi phải có đủ các điều kiện sau đây: Ngoài ra, Điều 3 cũng xác định nếu sự đồng ý của các cơ quan trung ương của các nước liên quan được đưa ra trước khi trẻ em đã 18 tuổi thì quá trình giải quyết việc nuôi con nuôi đó sẽ được thực hiện theo Công - Có năng lực hành vi dân sự đầy đủ; ước (mặc dù đến thời điểm hoàn tất việc - Hơn con nuôi từ 20 tuổi trở lên; - Có điều kiện về sức khoẻ, kinh tế, chỗ ở bảo đảm việc chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con nuôi; - Có tư cách đạo đức tốt. nuôi con nuôi, trẻ em có thể trên 18 tuổi). Theo Điều 5 của Công ước thì điều kiện để trẻ em được cho làm con nuôi do cơ quan có thẩm quyền của nước gốc quy định và xác nhận. Cụ thể, trách nhiệm của nước gốc là Công dân Việt Nam nhận người nước đảm bảo trẻ em có đủ điều kiện và thích hợp ngoài làm con nuôi phải có đủ các điều kiện trên và pháp luật của nước nơi người được nhận làm con nuôi thường trú (Điều 29 Luật nuôi con nuôi năm 2010). Như vậy, pháp luật Việt Nam đã kết hợp giữa nguyên tắc luật nơi thường trú và luật Việt Nam đề điều chỉnh điều kiện của người 12 làm con nuôi nước ngoài, xác nhận việc nuôi con nuôi quốc tế là vì lợi ích tốt nhất của trẻ em sau khi đã xem xét kĩ lưỡng các khả năng chăm sóc các em tại nước gốc; có sự đồng ý của những cá nhân, tổ chức và các nhà chức trách mà việc nuôi con nuôi cần phải có sự đồng ý của họ sau khi đã được tham khảo ý T¹p chÝ luËt häc sè 4/2011 nghiªn cøu - trao ®æi kiến ở mức độ cần thiết và được thông báo giữa trẻ em và cha mẹ nuôi; trách nhiệm của kĩ lưỡng về những hệ quả mà sự đồng ý của cha mẹ nuôi đối với trẻ em và công nhận họ có thể đem lại (như sự đồng ý của người mẹ, của trẻ được nhận làm con nuôi…). So sánh với pháp luật Việt Nam cho thấy quy định của pháp luật Việt Nam về độ tuổi việc cắt đứt hay không mối liên hệ tồn tại trước đó giữa trẻ và cha mẹ đẻ theo pháp luật của nước nơi thực hiện việc nuôi con nuôi. Theo Công ước Lahay năm 1993, một trong của con nuôi thấp hơn so với quy định của những hệ quả pháp lí quan trọng nhất của Công ước. Điều 8 Luật nuôi con nuôi năm 2010 quy định độ tuổi của người được nhận làm con nuôi như sau: - Trẻ em dưới 16 tuổi - Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây: việc nuôi con nuôi (theo hình thức nuôi con nuôi trọn vẹn) là làm chấm dứt quan hệ pháp lí tồn tại trước đó giữa cha mẹ đẻ và trẻ em (theo điểm c khoản 1 Điều 26 Công ước), nếu việc nuôi con nuôi có hệ quả như vậy tại nước nơi thực hiện việc nuôi con nuôi (nước nhận). + Được cha dượng, mẹ kế nhận làm Ở những nước có quy định việc nuôi con nuôi con nuôi; + Được cô, cậu, dì, chú, bác ruột nhận làm con nuôi. Tuy nhiên, theo hướng dẫn của Uỷ ban thường trực Công ước Lahay như đã trình bày ở trên thì pháp luật của nước gốc (Việt Nam) sẽ được áp dụng mà không tính đến Điều 3 của Công ước. Như vậy, Luật nuôi con nuôi của nước ta quy định trẻ em từ 16 tuổi trở xuống được cho làm con nuôi, quy định như vậy không trái với Công ước Lahay năm 1993. được quốc gia gốc cấp phép có hậu quả làm chấm dứt mối quan hệ pháp lí tồn tại trước đó giữa trẻ em và cha mẹ đẻ thì các em phải có quyền được hưởng tại quốc gia nhận hoặc bất kì nước kí kết nào những quyền tương tự như những quyền phát sinh do việc nuôi con nuôi có hậu quả như vậy. Mục đích của quy định này là để đảm bảo rằng trẻ em được nhận làm con nuôi phù hợp với quy định của Công ước sẽ có địa vị pháp lí và được bảo vệ như bất kì trẻ em nào khác trên lãnh thổ của nước nhận. c. Hệ quả pháp lí của việc nuôi con nuôi Tuy nhiên, việc chấm dứt quan hệ pháp lí Về nguyên tắc, việc nhận nuôi con nuôi giữa cha mẹ đẻ và trẻ em cũng không phải là giữa công dân của hai nước kí kết được nhà giải pháp chắc chắn, vì pháp luật của các chức trách có thẩm quyền của nước kí kết nước quy định rất khác nhau về vấn đề này. nơi thực hiện chứng nhận là phù hợp với Vì vậy, Điều 27 Công ước cho phép chuyển Công ước thì phải được công nhận có giá trị pháp lí ở nước kí kết kia (Điều 23). Song quốc gia hữu quan có quyền từ chối trong trường hợp việc nuôi con nuôi đó được xác định là giả dối hoặc thể hiện sự trái ngược với chính sách công của nước kí kết kia (Điều 24). Điều 26 Công ước quy định cụ thể hệ đổi hình thức nuôi con nuôi (từ đơn giản sang trọn vẹn). nước nhận sẽ áp dụng pháp luật của mình để cho phép chuyển đổi hình thức nuôi con nuôi. Việc chuyển đổi này, cũng như hệ quả pháp lí của nó, sẽ được công nhận tại các quốc gia thành viên khác. Công ước Lahay năm 1993 cũng không bắt buộc việc nuôi con quả của việc nuôi con nuôi, bao gồm việc nuôi làm chấm dứt quan hệ pháp lí giữa cha công nhận mối quan hệ pháp lí cha mẹ - con T¹p chÝ luËt häc sè 4/2011 mẹ đẻ với trẻ em. Việc nuôi con nuôi chỉ làm 13 nghiªn cøu - trao ®æi chấm dứt quan hệ đó nếu việc nuôi con nuôi đó có hệ quả như vậy tại nước kí kết nơi thực quản lí, định đoạt tài sản riêng đối với con đã cho làm con nuôi. hiện việc nuôi con nuôi (nước nhận). Như vậy, theo quy định trên của Luật Về hệ quả pháp lí của việc nuôi con nuôi con nuôi năm 2010, trẻ em khi được nuôi, Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 không quy định là làm chấm dứt hay vẫn tồn tại quan hệ pháp lí giữa cha mẹ đẻ và trẻ em đã được cho làm con nuôi. Tuy nhiên, theo nhận làm con nuôi chỉ có mối quan hệ giữa đứa trẻ và cha mẹ nuôi cũng như các thành viên khác của cha mẹ nuôi. Nó có thể bị thay đổi họ, tên, dân tộc theo yêu cầu của cha mẹ quy định của Bộ luật dân sự (Điều 676, nuôi. Cha mẹ đẻ không còn quyền, nghĩa vụ Điều 678) thì sau khi được cho làm con nuôi, trẻ em vẫn còn giữ mối quan hệ pháp lí với cha mẹ đẻ, cụ thể là quan hệ về thừa kế. Vì vậy, có thể nói pháp luật dân sự Việt Nam cho phép tồn tại song song 2 mối quan hệ pháp lí của trẻ em với cha mẹ nuôi và cha mẹ đẻ. Đến khi Luật nuôi con nuôi được ban hành năm 2010, phù hợp với quy định của Công ước, Điều 24 Luật nuôi con nuôi quy định hệ quả của việc nuôi con nuôi như sau: chăm sóc, nuôi dưỡng, cấp dưỡng, đại diện theo pháp luật, bồi thường thiệt hại, quản lí, định đoạt tài sản riêng đối với con đã cho làm con nuôi (trừ trường hợp giữa cha mẹ đẻ và cha mẹ nuôi có thoả thuận khác). Tức là, trẻ em Việt Nam không còn có quan hệ pháp lí với cha mẹ đẻ. Quy định trên là cần thiết bởi thực tế khi cho con làm con nuôi ở nước ngoài thì cha mẹ đẻ ở Việt Nam không thể có cơ hội và - Kể từ ngày giao nhận con nuôi, giữa điều kiện thực tế để thực hiện quyền và cha mẹ nuôi và con nuôi có đầy đủ các nghĩa vụ pháp lí của mình đối với con. Mặt quyền, nghĩa vụ của cha mẹ và con; giữa con nuôi và các thành viên khác của gia đình cha mẹ nuôi cũng có các quyền, nghĩa vụ đối với khác, điều đó sẽ bảo đảm cho con nuôi Việt Nam được hưởng đầy đủ các quyền và lợi ích như mọi trẻ em sinh sống tại nước nhận nhau theo quy định của pháp luật về hôn đồng thời cũng tránh được việc cha mẹ đẻ có nhân và gia đình, pháp luật dân sự và các quy định khác của pháp luật có liên quan. - Theo yêu cầu của cha mẹ nuôi, cơ quan thể lợi dụng quyền làm cha mẹ để đòi hỏi cha mẹ nuôi hoặc con đã cho làm con nuôi giúp đỡ về vật chất.(2) nhà nước có thẩm quyền quyết định việc Tuy nhiên, về vấn đề quốc tịch của trẻ thay đổi họ, tên của con nuôi. Việc thay đổi họ, tên của con nuôi từ đủ 09 tuổi trở lên phải được sự đồng ý của người đó. - Dân tộc của connuôilà trẻ embịbỏ rơiđược xác định theo dân tộc của cha nuôi, mẹ nuôi. em Việt Nam được cho làm con nuôi người nước ngoài, khoản 1 Điều 37 Luật quốc tịch Việt Nam năm 2008 quy định: "Trẻ em là công dân Việt Nam được người nước ngoài nhận làm con nuôi thì vẫn giữ quốc tịch Việt - Trừ trường hợp giữa cha mẹ đẻ và cha Nam". Đồng thời, Luật quốc tịch còn quy mẹ nuôi có thoả thuận khác, kể từ ngày giao nhận con nuôi, cha mẹ đẻ không còn quyền, nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng, cấp dưỡng, đại diện theo pháp luật, bồi thường thiệt hại, 14 định: "Sự thay đổi quốc tịch của con nuôi từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi phải được sự đồng ý bằng văn bản của người đó" (khoản 4 Điều 37). Đây là điểm khác cơ bản giữa Luật T¹p chÝ luËt häc sè 4/2011 ... - tailieumienphi.vn
nguon tai.lieu . vn