Xem mẫu

Journal of Science – 2015, Vol. 5 (1), 101 – 105

An Giang University

BẢN NĂNG TÍNH DỤC TRONG TIỂU THUYẾT CỦA NGUYỄN ĐÌNH TÚ
Nguyễn Trọng Hiếu1
1

ThS. Khoa Tiểu học - Mầm non, Trường Đại học Đồng Tháp

Thông tin chung:
Ngày nhận bài: 18/04/14
Ngày nhận kết quả bình duyệt:
27/08/14
Ngày chấp nhận đăng: 03/15
Title:
Sexual instincts in Nguyen
Dinh Tu’s novels
Từ khóa:
Tính dục, phân tâm học, tâm lý
nhân vật, ẩn ức
Keywords:
Sexual, Psychoanalysis,
characters’ psychology,
depression

ABSTRACT
Libido is an appropriate issue of the Freud's theory that has analysized the
sexual characteristics due to its impacts on the human’s spirits. Nguyen Dinh Tu
has also considered this because of the feelings of the younger generations. His
styles have leads the audiences to clasified feelings when enjoying the novels,
such as simple and sympathized feelings that belong to its characters.

TÓM TẮT
Vấn đề tính dục là một trong những vấn đề trung tâm của học thuyết Phân tâm
học Freud. Phân tâm học tìm hiểu trạng thái tâm lý của vấn đề tính dục, từ đó để
xem xét những ảnh hưởng của nó về mặt tinh thần của con người. Trong dòng
chảy hối hả văn học về đề tài tính dục, nhà văn Nguyễn Đình Tú coi đó như là ẩn
ức của thế hệ trẻ, một lối sống trong thời đại hiện nay. Ngòi bút của nhà văn dẫn
độc giả tránh khỏi cảm giác khó chịu, khi tiếp cận với những chi tiết tưởng như
dữ dội, sa đà mà chừng mực, vừa phải và biết dừng lại đúng lúc. Bởi vậy, người
đọc chứng kiến những cung bậc tính dục thật tự nhiên và đồng cảm theo diễn
biến tâm lý của nhân vật.

1. PHẦN MỞ ĐẦU
Nhà văn Nguyễn Đình Tú hiện là trưởng ban văn
xuôi của Tạp chí Văn nghệ Quân đội, tuy tuổi đời
còn khá trẻ nhưng nhà văn đã sở hữu trong tay 7
cuốn tiểu thuyết, trong phạm vi bài viết này,
chúng tôi chỉ khảo sát 4 tiểu thuyết nổi bật của
Nguyễn Đình Tú: Hồ sơ một tử tù, Nháp, Phiên
bản và Kín. Nguyễn Đình Tú được biết đến qua
những cuốn tiểu thuyết mang đậm thông điệp
dành cho những người trẻ. Tiểu thuyết của anh thể
hiện sự nhạy bén về tư duy nghệ thuật trong việc
nhận thức tối đa thực trạng suy thoái, băng hoại
đạo đức, nhân cách của con người, đặc biệt là thế
hệ trẻ hiện nay. Với kinh nghiệm vốn có của một
người từng làm việc trong Viện kiểm sát cộng với
tài năng của một nhà văn, Nguyễn Đình Tú đã khá
thành công khi tạo được cho mình một cách tiếp
cận hiện thực mà nói như nhà văn Chu Lai là
“không né tránh bất cứ thứ gì mà cuộc sống khuất
lấp và ngổn ngang đang phô bày”.

XIX đầu thế kỷ XX, với sự sáng tạo của nhà tâm
lý học người Áo Sigmund Freud (1856 - 1939), sự
kế thừa và phát triển của Carl Gustav Jung (1875 1961), Fromm (1900 - 1980) và sau đó, có ảnh
hưởng mạnh mẽ đến lịch sử tư tưởng của nhân
loại. Tạo cú sốc thứ ba cho lịch sử phát triển của
loài người sau phát hiện của Copernius và
Darwin, Phân tâm học với học thuyết về cái tôi vô
thức của đời sống tinh thần con người đã khám
phá được những bí ẩn, những khát vọng thầm kín
trong miền sâu thẳm của tâm hồn con người, thay
đổi cả cái nhìn của con người về chính bản thân
họ.
Vấn đề tính dục là một trong những vấn đề trung
tâm của học thuyết Phân tâm học S.Freud. Nó có
vai trò to lớn đối với đời sống con người và xã
hội. Theo Freud, tính dục là cốt lõi của vô thức,
tính dục không phụ thuộc vào những phương thức
biểu hiện như người ta vốn quan niệm. Phân tâm
học tìm hiểu trạng thái tâm lý của vấn đề tính dục,

Học thuyết Phân tâm học ra đời vào cuối thế kỷ
101

Journal of Science – 2015, Vol. 5 (1), 101 – 105

An Giang University

từ đó để xem xét những ảnh hưởng của nó về mặt
tinh thần của con người.

nâng niu, mơn trớn như thế này. Hai bầu vú em
căng lên, sự thèm khát trong em trỗi dậy, em để
mặc Hưng bù đắp cho em bằng những va chạm đê
mê” (Phiên bản, 2009, tr.266). Hương ga luôn hi
vọng Hưng mã sẽ là bến bờ hạnh phúc của cuộc
đời cô. Vì thế Hương ga yêu hết mình và tận
hưởng những giây phút thăng hoa cùng Hưng mã
mà không hề suy nghĩ, đắn đo: “Hưng dẫn em đi
qua miền cực lạc của trai gái, của cuộc sống bụi
đời, của những ngày tháng đứng bãi, của những
mộng mơ mê đắm đầu đường xó chợ. Hưng sở
hữu một cơ thể gầy gò nhưng dẻo dai, những hình
xăm trên cơ thể Hưng rất ấn tượng với em. Hưng
lại rất có kinh nghiệm trong cái chuyện cọ xát da
thịt (…), làm em tê dại bởi khoái cảm” (Phiên
bản, 2009, tr.184-185).

Trước 1975, Phân tâm học vào Việt Nam chủ yếu
là do tầng lớp trí thức có dịp học tập và nghiên
cứu ở nước ngoài đưa về nước, tuy nhiên do nhiều
nhân tố chi phối, Phân tâm học xuất hiện chưa
thành hệ hình lý thuyết hoàn chỉnh. Các ngành
nghiên cứu tiếp nhận Phân tâm học ở một số khía
cạnh hoặc một phần của học thuyết (phù hợp với
ngành họ nghiên cứu), vì vậy chưa có tính liên kết
đa chiều. Theo nghĩa đó thì Phân tâm học chưa trở
thành lý thuyết có sức hấp dẫn với khoa học thực
nghiệm và đặc biệt là trong nghệ thuật. Đối với
nghệ thuật mà chủ yếu là trong văn chương, một
số nhà văn đã tiếp nhận Phân tâm học và đưa vào
sáng tác của mình, song việc tiếp nhận vẫn chỉ
dừng lại ở “bản năng tính dục”. Các tác phẩm
của Nguyễn Thị Hoàng, Thanh Tâm Tuyền, Tuý
Hồng, Thuỵ Vũ, Nguyễn Mạnh Côn, Chu Tử…
tập trung khai thác chiều sâu tâm lý nhân vật
ở những cơn khát dục của nhân vật hay mặc cảm
tình dục. Họ chưa chú trọng nhiều cho việc tìm
hiểu sự biểu hiện của vô thức, đặc biệt là vô thức
cá nhân trong chiến tranh bên cạnh chủ nghĩa anh
hùng tập thể, chưa khai thác được ẩn ức, nỗi ám
ảnh của con người với tư cách là một thân phận
hay vấn đề tính dục gắn với những giá trị nhân
văn. Sau 1975, đặc biệt là từ sau đổi mới 1986,
với chính sách mở cửa, học thuật nước nhà có dịp
tiếp cận với khoa học bên ngoài qua con đường
giao lưu và tiếp nhận văn hóa giữa các nước. Khi
ấy, Phân tâm học với tư cách là ngành khoa học
thực nghiệm được sử dụng mạnh mẽ ở các nước
Tây Âu, có điều kiện vào nước ta, trên cơ sở tiếp
nhận về mặt lý thuyết và được công khai sử dụng
trong nghiên cứu khoa học, đặc biệt là khoa học
nhân văn.

Tính dục phản ánh tính cách con người. Hành vi
tình dục không chỉ gói gọn ở tính chất xác thịt mà
nó là kết quả của tình yêu đẹp đẽ. Tình yêu giữa
Hương ga và Tùng hê rô trong tiểu thuyết Phiên
bản là một tình yêu đẹp, hết lòng vì nhau. Bên
Tùng, Hương ga được sống với chính mình, tận
hưởng những giây phút thăng hoa trong sự thỏa
mãn: “Ngay cả những lúc quỳ trước em, đổ bóng
lên người em, dồn dập vào trong em, em vẫn cảm
nhận được sự gượng nhẹ từ Tùng. Tùng sợ cái
khung người quá khổ sẽ đè bẹp em, nghiền nát
em, tổn thương em. Tùng dẻo dai nhưng không
mạnh bạo. Sự đều đặn của Tùng như mồi lửa kiên
nhẫn đưa vào khối nước đá trong em làm chúng
tan chảy. Sự tan chảy ấy trở thành thác lũ quay lại
cuốn phăng Tùng đi” (Phiên bản, 2009, tr.301).
Tình yêu giữa Tùng hê rô và Hương ga được xây
đắp từ những nghĩa cử cao đẹp của tình người. Họ
biết sống cho nhau và vì nhau. Giữa bản năng và
nhân tính, họ nghiêng về nhân tính nhiều hơn.
Tính dục trong tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú không
chỉ là bản năng mà còn thể hiện chất nhân văn,
nhân bản, tình người cao đẹp. Nhà văn miêu tả
cảnh ái ân, hoan lạc của những nhân vật trong tác
phẩm, thật sự là những khoảnh khắc rất “người”.
Người đọc thật sự rung động và hòa cùng cảm xúc
với các nhân vật khi đọc đoạn văn miêu tả giây
phút đầu tiên Đại cùng Duyên trong tiểu thuyết
Nháp mang đầy tính bản năng. Nguyễn Đình Tú
đã miêu tả cảnh ân ái giữa Đại và Duyên thật lãng
mạn và cảm xúc. Từ không gian gợi tình đưa đẩy,
đến những biểu hiện gợi tình của giới tính, tất cả
hiện lên thật hài hòa: “Gió mơn man da thịt. Bên
thì mở lòng, bên thì tò mò, mong mỏi. Thế là
những nụ hôn trao nhau. Thế là những chiếc cúc

2. PHẦN NỘI DUNG
2.1 Tính dục với những cảm xúc thiêng liêng
Tính dục trong tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú, trước
hết được miêu tả như một nhu cầu tự nhiên, một
phần tất yếu của cuộc sống, động lực thúc đẩy con
người hướng về điều tốt đẹp. Nhân vật Hương ga
trong tiểu thuyết Phiên bản đang ở cái tuổi mới
lớn, hừng hực sức yêu. Những tháng ngày kiếm
sống nơi bến bãi, lang thang, cô đơn, phút giây
khoái cảm bên Hưng mã là nguồn sống cho sự tồn
tại của Hương ga: “Da thịt em lâu lắm rồi mới lại
được những ngón tay đàn ông vuốt ve, mò mẫm,

102

Journal of Science – 2015, Vol. 5 (1), 101 – 105

An Giang University

bật tung. Đại ơi, Duyên sợ lắm! Sợ gì? Đau!
Không đau đâu. Thế là người phủ lên người, da
thịt phủ lên da thịt, hoàng hôn phủ lên hoàng hôn.
Cả đám hoa dạ thảo ven hồ nát bấy dưới hai thân
hình căng tràn sức thanh xuân” (Nháp, 2011,
tr.131). Từ phút thăng hoa, khoái lạc ấy, Đại cảm
thấy hân hoan trong lòng. Cùng với sự biến đổi về
mặt tâm lý, là cả một sự thay đổi lớn đang diễn ra
bên trong tâm hồn của cả hai người. Nguyễn Đình
Tú thật tinh tế và tỏ ra thấu hiểu tâm lý nhân vật
khi nói lên những cảm xúc của họ: “Cả hai đều
cảm thấy có một cái gì đó đang nứt ra trong mình.
Những bước chân đầu tiên thật ngượng ngạo,
khắp da thịt đâu cũng thấy tê tê giần giật, cảm xúc
dâng lên trái chiều và căng cứng, vừa thích thú
vừa e ngại, vừa trống rỗng vừa bồi hồi” (Nháp,
2011, tr.131).

Bởi vậy, người đọc chứng kiến những cung bậc
tính dục thật tự nhiên và đồng cảm theo diễn biến
tâm lý của nhân vật.
2.2 Tính dục lệch hướng
Bên cạnh việc thể hiện đời sống tính dục với
những cảm xúc nhân tính, nhà văn Nguyễn Đình
Tú còn đi sâu khám phá bi kịch tâm hồn con
người, thông qua việc lột hiện những ẩn ức tình
dục, bi kịch đồng giới, bi kịch tính giao khác
chủng tộc và cách thức sinh hoạt tình dục suy đồi
của một bộ phận thế hệ trẻ.
Thông qua việc miêu tả một cách chân thực, sống
động về những hành vi tình dục lệch hướng trong
tiểu thuyết Nháp, nhà văn lý giải khá thuyết phục
cái yếm thế, sự tự ti hèn yếu về tâm hồn của
những người đàn ông Việt, trong một xã hội có
những chuẩn mực bị đảo lộn, nhiều quan điểm bị
thay đổi từng ngày… mà con người đôi khi rơi
vào trạng thái của sự khát thèm thái quá hay bị lạc
vào mớ bòng bong rối rắm phức tạp không lối
thoát. Nhân vật Thạch do những biến động của
cuộc đời đã để lại nhiều ẩn ức, mặc cảm dồn nén,
khiến khả năng tình dục bị hạn chế, dần dần sa
đọa về sinh lý, nhân cách, lao vào mối quan hệ
đồng tính nhằm chứng tỏ cái “bản lĩnh đàn ông”
trong con người. Cuộc đời của Thạch là một bi
kịch không lối thoát: nỗi đau khi bị mẹ bỏ rơi để
lấy chồng Tây, lại thêm sự thật trước mắt, bị
người yêu chê “yếu” đi lấy chồng Tây: “Anh hãy
chứng tỏ điều gì đó hơn Jack đi” (Nháp, 2011,
tr.105).

Trong tiểu thuyết Hồ sơ một tử tù, Nguyễn Đình
Tú miêu tả cảnh nhân vật Bạch Đàn và Dịu, hai
tâm hồn, hai thể xác hòa quyện vào nhau dưới
sông trăng thật đẹp, thật cảm xúc và đó cũng là
giây phút đầu tiên của đời người, thăng hoa khoái
lạc để nuôi lớn tình yêu trong nhau. Nhà văn đã
dành những trang viết thật nhẹ nhàng, vừa phải, tế
nhị về khoảnh khắc giao hoan thật diệu kỳ giữa
đôi bạn trẻ, trong một đêm trăng dập dềnh sóng
nước: “Bóng trăng mơn man vành môi thiếu nữ
ngọt mềm mê đắm của Dịu rồi khẽ lần tìm xuống
vùng cổ trắng ngần. Bóng trăng quờ tay vuốt ve
bả vai và eo lưng Dịu. Dịu nhắm mắt, run rẩy
dưới bóng trăng rừng rực hơi thở nồng nàn ấm
nóng” (Hồ sơ một tử tù, 2011, tr.115). Và rồi, tất
cả hòa quyện vào nhau trong lung linh, huyền ảo,
đưa Dịu bay lên, trôi đi trong cảm giác thiên thần:
“Bóng trăng yêu Dịu cuồng nhiệt, phủ lên người
Dịu những cái hôn lửa đốt, những dập dềnh sóng
lũ, những lắng diệu êm ái, những rầm rì yêu
đương, cả chút bạo liệt băm bổ. Bóng trăng mở
hết tất cả các giác quan để thỏa mãn sự khám phá
Dịu. Dịu thả lỏng toàn thân cho những khoái cảm
tràn đến từng thớ thịt” (Hồ sơ một tử tù, 2011,
tr.115). Hình ảnh Dịu là tất cả những gì đẹp nhất
và cũng xót xa nhất trong kí ức của Đàn.

Chính những nỗi ám ảnh về sự yếu kém trong đời
sống tình dục cứ tích tụ, dồn nén trong tâm hồn
Thạch đã làm cho Thạch lao vào tìm kiếm mọi
phương cách để khẳng định tính dục của người
đàn ông Việt. Và Thạch đã quen với một bác sĩ
nam khoa với nickname Galaloai, chuyên về “rối
loạn cương” và cũng là một gã “gay chìm”. Cứ
như thế, Thạch rơi vào bế tắc, hoảng loạn khi
càng ngày càng nhận ra cơ chế tình dục của mình
đã trở nên khác thường, gã đồng tính đã “phá hủy
cơ thể sinh lý bình thường của hắn, tiêu diệt xúc
cảm tan chảy trong mạch máu hắn, hắn biến thành
thứ lưỡng tính nhờ mỗi khi lên giường” (Nháp,
2011, tr.255). Sự bệnh hoạn, khiếm khuyết, yếm
thế, tự ti trong tâm hồn, khiến họ không dám sống
với chính mình, không đủ bản năng để vượt khỏi
bi kịch do chính họ giăng ra rồi mắc kẹt trong đó.
Đúng như nhận định của nhà văn Chu Lai về tiểu

Viết về đời sống tính dục, Nguyễn Đình Tú đã rất
khéo léo trong việc miêu tả những tình huống ái
ân, những cảm xúc giao hoan và cả vẻ đẹp phồn
thực của cơ thể con người mà không bị lặp, không
gây cảm giác nhàm chán. Ngòi bút của nhà văn
dẫn độc giả tránh khỏi cảm giác khó chịu, khi tiếp
cận với những chi tiết tưởng như dữ dội, sa đà mà
chừng mực, vừa phải và biết dừng lại đúng lúc.
103

Journal of Science – 2015, Vol. 5 (1), 101 – 105

An Giang University

thuyết Nháp: “Sao cuộc sống buồn thế, sao cuộc
sống có quá nhiều những con người không dám
sống đúng mình, sống đầy mặc cảm quẩn quanh,
sống cái kiểu thân làm tội đời ích kỷ và tự kỷ như
thế?” (Nháp, 2011, tr.323).

thân người mặt thú gắn kết với nhau theo chiều
ngang rồi chiều dọc, từ hình vuông sang hình tròn,
nối đuôi nhau” (Kín, 2010, tr.431). Nhà văn miêu
tả cảnh làm tình bệnh hoạn, tởm lợm, ghê rợn của
Quỳnh và nhóm bạn, người đọc không khỏi bức
xúc, lo ngại về lối sống quen thói hưởng thụ ích
kỷ, dẫn đến buông thả, suy đồi của không ít giới
trẻ hiện nay. Họ không lo tìm kiếm cho mình một
tương lai tốt đẹp, mà đánh đổi tất cả để tận hưởng
mọi khoái lạc của cuộc sống, để bản năng lấn át lý
trí và chiều theo tiếng gọi của dục vọng đen tối.
Tìm hiểu sự miêu tả tính dục lệch hướng trong
tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú, không những giúp
người đọc hiểu được tâm, sinh lý của con người
với những khuất lấp, sâu kín, bí ẩn, mà còn là
thông điệp nóng gởi đến bạn đọc về trạng thái tinh
thần, suy nghĩ, lối sống của một bộ phận thế hệ trẻ
đương đại.

Khép lại tiểu thuyết Nháp, người đọc chưa dứt
khỏi những ám ảnh bi kịch về câu chuyện đồng
tính giữa Galaloai và Thạch, thì tiểu thuyết Kín lại
mở ra những trang day dứt về mối quan hệ đồng
tính giữa Tráng và Pu. Nhà văn đã thể hiện một
cách gián tiếp qua cảm nhận và phát hiện của
Quỳnh, người bạn gái ở cùng nhà với Tráng ở
Malaysia. Quỳnh đã nhận ra: “Sắc thái tình cảm
của Tráng thật khó hiểu. Không thể gọi tên ra
được. Anh ta quý Quỳnh như một cô em gái,
chiều Quỳnh như một người bạn học, trân trọng
Quỳnh như một người yêu mới tỏ tình, nhưng
chưa bao giờ anh ta có khoái cảm trai gái và yêu
thương Quỳnh như yêu thương một người tình”
(Kín, 2010, tr.339).

3. PHẦN KẾT LUẬN
Với nhà văn Nguyễn Đình Tú, viết về tính dục
nhưng tránh sa vào những trang viết tầm thường,
thô tục không đơn giản như viết những trang sách
giáo điều cấm cản tính dục. Một vấn đề tưởng như
đơn giản, gần với con người nhưng nói ra như
mắc tâm bệnh ghê gớm, đồi trụy; mà chỉ cần
không chắc tay người viết sẽ sa vào lối cụt. Vững
tin và vững bước trên con đường mình đã chọn,
tác giả luôn tâm niệm: Đằng sau những trường
đoạn sex nóng bỏng, tác phẩm của anh chứa đựng
những vấn đề của thế thái nhân tình, là “cái nóng
ẩn chứa bên trong tác phẩm chứ không phải là cái
nóng ở đề tài, ở bề nổi của những trang sách”.

Tình cảm của Tráng dành cho Quỳnh chỉ dừng lại
ở đó. Và mãi đến sau, sau cái chết bất ngờ của
Tráng và Pu, Quỳnh mới phát hiện ra mối quan hệ
bất thường của họ: “Quỳnh đã vô cùng kinh ngạc
khi thấy những hình ảnh thầm kín, khác thường
của Tráng và Pu, không chỉ những tấm ảnh chụp
tình tứ mà còn nhiều video clip trong máy vi tính
và những đĩa mềm chứa những thao tác hết sức dị
thường giữa hai người con trai. Quỳnh rùng mình
nhận ra man điệu của lưỡi có xuất xứ từ những
cuộc làm tình đặc biệt giữa Tráng và Pu” (Kín,
2010, tr.259). Bi kịch cuộc đời của hai nhân vật
Tráng và Pu chỉ là một nét vẽ trong bức tranh
chung về những vấn đề đang còn tồn tại một cách
bức bối trong đời sống của giới trẻ đương đại mà
Nguyễn Đình Tú muốn phơi trải.

Vì vậy, thành công trong những trang tiểu thuyết
“không phải ai cũng kể được” không chỉ là bản
lĩnh “chấp nhận những gì văn chương đem lại”,
mà còn là tài năng đích thực của nghệ sĩ chấp
nhận gánh trên vai “nghiệp chữ” nhiều hệ lụy.

Xu hướng tính dục lệch hướng còn được thể hiện
qua lối làm tình tập thể, thác loạn trong buổi sinh
nhật của Quỳnh và nhóm bạn. Người đọc rùng
mình, kinh ngạc khi đọc những trang miêu tả cuộc
hành lạc mang “màu sắc hủy diệt” của Quỳnh và
mười một người bạn. Mặt nạ, loa thùng, rượu
mạnh, thuốc lắc… đã đưa mười hai “hình nhân”
chìm vào mê cung của hoang lạc, khoái thú điên
cuồng, dâm loạn: “Mười hai con giáp mỗi lúc một
trở nên gấp gáp, cuồng nhiệt, mê mải, lắc lư, la
hét, quẫy đạp (…). Các tư thế trở nên khác
thường. Những động tác biến thiên kỳ cục. Vũ
điệu thân xác thay đổi liên tục. Muông thú bị kích
động, tự động phản ứng theo dây chuyền. Những

TÀI LIỆU THAM KHẢO
Đỗ Lai Thúy. (2009). Bút pháp của ham muốn. Hà Nội:
Nhà xuất bản Tri thức.
Hồ Thế Hà. (tháng 10/2008). Hướng tiếp cận từ Phân
tâm học trong truyện ngắn Việt Nam sau 1975. Tạp
chí Sông Hương. 232, 47-52.
Nguyễn Đình Tú. (2009). Phiên bản. Hà Nội: Nhà xuất
bản Công an Nhân dân.
Nguyễn Đình Tú. (2010). Kín. Hà Nội: Nhà xuất bản
Văn học.
Nguyễn Đình Tú. (2011). Hồ sơ một tử tù. Hà Nội: Nhà
xuất bản Văn học.

104

Journal of Science – 2015, Vol. 5 (1), 101 – 105

An Giang University

Nguyễn Đình Tú. (2011). Nháp. Hà Nội: Nhà xuất bản
Thanh niên.

Trần Thanh Hà. (2008). Học thuyết S. Freud và sự thể
hiện của nó trong văn học Việt Nam. Hà Nội: Nhà
xuất bản Đại học Quốc gia.

105

nguon tai.lieu . vn