Xem mẫu
- Bán đảo Ả rập
Lệnh ngừng bắn và hậu quả tức thì ( chương 25 )
Sự mắc kẹt của tập đoàn quân số 3 Ai Cập
Hội đồng bảo an Liên Hợp Quốc đã thông qua (tỷ lệ 14-0) nghị
quyết 338 kêu gọi một sự ngừng bắn, chủ yếu là qua đàm phán
giữa Mỹ và Liên Xô, vào ngày 22-10. Nó đã kêu gọi “tất cả các
bên đang giao tranh” phải “chấm dứt mọi hoạt động quân sự ngay
lập tức”. Nghị quyết có hiệu lực vào 12 giờ sau, lúc 6h52 giờ
Israel. Bởi vì nó có hiệu lực sau khi màn đêm buông xuống, các vệ
tinh giám sát không xác định được các chiến tuyến ở đâu khi giao
tranh dừng lại. Trước khi lệnh ngừng bắn được thực thi, ngoại
trưởng Mỹ Henry Kissenger đã nói với thủ tướng Golda Meir “Bà
sẽ không vấp phải sự phản đối mạnh mẽ từ Washington nếu một
điều gì đó xảy ra trong màn đêm, trong khi tôi đang bay. Không có
gì diễn ra ở Washington cho đến trưa mai”.
Khi lệnh ngừng bắn bắt đầu, quân Israel còn cách mục tiêu của họ
vài trăm mét – con đường cuối cùng nối Cairo và Suez. Trong tối
hôm đó, Ai Cập đã vi phạm lệnh ngừng bắn ở một số địa điểm, tiêu
diệt 9 xe tăng Israel. Để trả đũa, David Elazar thỉnh cầu sự cho
phép tiếp tục tấn công quyết liệt ở phía nam, và Moshe Dayan đã
chấp thuận. Quân đội Israel hoàn thành cuộc tấn công phía nam,
chiếm giữ con đường và chặn tập đoàn quân số 3 của Ai Cập ở
phía đông kênh đào Suez.
Sáng ngày hôm sau, 23-10, các máy bay do thám Liên Xô đã xác
nhận là lực lượng Israel đang di chuyển về phía nam, và Liên Xô
cáo buộc Israel đã vi phạm lệnh ngừng bắn. Trong một cuộc điện
đàm với Golda Meir, Henry Kissinger hỏi “Bằng cách nào mà bất
cứ ai cũng biết đường ranh giới ở đâu hay đã từng ở đâu trên sa
mạc?” Meir đáp lại “Họ sẽ biết, chắc chắn thế”. Kissinger khám
phá ra đội quân Ai Cập bị mắc kẹt không lâu sau đó.
- Kissinger nhận ra tình thế đặt ra với Mỹ là một cơ hội to lớn để
kéo Ai Cập khỏi tầm ảnh hưởng của Liên Xô– Ai Cập hoàn toàn
phụ thuộc vào Mỹ để ngăn cản Israel tiêu diệt đội quân mắc kẹt
của họ, vốn hiện không có sự tiếp tế thức ăn và nước. Sau đó, Mỹ
đã gây áp lực với Israel để nước này không tiêu diệt tập đoàn quân
mắc kẹt, thậm chí đe dọa sẽ ủng hộ nghị quyết của Liên Hợp Quốc
buộc Israel trở về với vị trí của họ vào ngày 22-10 nếu họ không
cho phép những sự tiếp tế phi quân sự tiếp cận đội quân kia. Trong
cuộc điện đàm với đại sứ Simcha Dinitz, Kissinger nói với vị đại
sứ này rằng việc tiêu diệt tập đoàn quân số 3 của Ai Cập “là một
lựa chọn không được phép tồn tại”.
- Khi lệnh ngừng bắn thực hiện, Israel mất phần lãnh thổ màu
đỏ nhưng lại chiếm được phần màu xanh lá cây
Nguy cơ hạt nhân
Trong khi chờ đợi, Brezhnev gửi cho Nixon một lá thư vào nửa
đêm ngày 23-24 tháng 10, Brezhnev đề nghị rằng Mỹ và Liên Xô
cùng bảo đảm cho cả 2 phía thực hiện đúng lệnh ngừng bắn. Ông
cũng đe dọa rằng “Tôi sẽ nói thẳng rằng nếu ngài thấy không thể
hành động cùng chúng tôi trong vấn đề này, chúng tôi sẽ buộc phải
- hành động khẩn cấp bằng cách cân nhắc những bước đi đơn
phương thích đáng. Chúng tôi không thể cho phép Israel tùy ý làm
gì thì làm.” Tóm lại, Liên Xô đe dọa sẽ tham chiến về phía Ai Cập.
Liên Xô đã đặt 7 sư đoàn không vận trong tình trạng khẩn cấp và
cầu hàng không được sắp xếp để vận chuyển họ đến Trung Đông.
Một sở chỉ huy trên không được thiết lập ở miền nam Liên Xô.
Một vài đơn vị không quân cũng được báo động. “Các báo cáo
cũng cho biết rằng ít nhất một trong số các sư đoàn và một phi đội
máy bay vận tải đã di chuyển từ Liên Xô đến căn cứ không quân ở
Nam Tư”. Người Liên Xô cũng triển khai 7 tàu đổ bộ với khoảng
40.000 lính thủy đánh bộ trên Địa Trung Hải.
Lời nhắn nhủ đến sau khi Nixon đã đi ngủ. Kissinger ngay lập tức
triệu tập một cuộc họp của các viên chức cấp cao, bao gồm bộ
trưởng quốc phòng James Schlesinger, giám đốc CIA William
Colby, và tham mưu trưởng Nhà Trắng Alexander Haig. Vụ bê bối
Watergate đã đạt đến đỉnh điểm, và Nixon quá bối rối và lo lắng
đến nỗi họ quyết định nghiên cứu vấn đề mà không có ông.
Cuộc họp đã tìm ra một giải pháp hòa giải, được gửi đến cho
Brezhnev (dưới tên của Nixon). Cùng thời gian này, họ quyết định
nâng mức tình huống khẩn cấp từ mức 4 xuống mức 3 (lưu ý là
mức thấp thì càng khẩn cấp). Cuối cùng họ gửi một thông điệp đến
tổng thống Ai Cập Sadat (cũng với tên Nixon) yêu cầu ông thu hồi
thỉnh cầu Liên Xô giúp đỡ, và đe dọa rằng nếu Liên Xô can thiệp
thì tiếp theo sẽ là Mỹ.
Liên Xô nhanh chóng phát hiện ra sự gia tăng mức tình huống
khẩn cấp của Mỹ, và ngạc nhiên đáp trả rằng: “Ai có thể tưởng
tượng được rằng người Mỹ lại dễ dàng hoảng sợ đến thế?” người
đứng đầu đoàn chủ tịch Xô viết tối cao Nikolai Podgomy nói. Còn
thủ tướng Alexei Kosygin phát biểu: “Thật vô lý khi gây ra chiến
tranh với Mỹ vì Ai Cập và Syria”, trong khi giám đốc KGB Yuri
Andropov tiếp lời: “Chúng ta sẽ không gây ra cuộc chiến tranh thế
giới thứ 3”. Cuối cùng, Liên Xô đành chấp nhận thất bại của người
- Arab. Bức thư từ chính phủ Mỹ đã đến trong cuộc họp. Brezhnev
quyết định rằng người Mỹ đã quá lo lắng, và tiến trình hành động
tốt nhất là chờ đợi sự trả lời. Sáng hôm sau, Ai Cập đồng ý với đề
nghị của Mỹ, và hủy bỏ lời thỉnh cầu giúp đỡ với Liên Xô, chấm
dứt cuộc khủng hoảng.
Sự xuống thang ở mặt trận phía bắc
Ở mặt trận phía bắc, Syria đang chuẩn bị cho một cuộc phản công
quy mô lớn, dự kiến vào ngày 23-10. Cùng với 5 sư đoàn của
Syria, Iraq hỗ trợ thêm 2 sư đoàn và có cả những bổ sung quân đội
nhỏ từ các quốc gia Arab khác, bao gồm Jordan. Liên Xô cũng
thay thế phần lớn thiệt hại mà lực lượng xe tăng Syria đã gánh chịu
trong tuần đầu tiên của chiến tranh.
Tuy nhiên, trong ngày trước khi cuộc công kích bắt đầu, Liên Hợp
Quốc đã áp đặt lệnh ngừng bắn (sau sự đồng thuận của cả Israel và
Ai Cập). “Sự chấp nhận lệnh ngừng bắn của Ai Cập vào thứ 2 (22-
10) đã tạo ra tình thế tiến thoái lưỡng nan cho Assad. Lệnh ngừng
bắn không ràng buộc ông, nhưng dụng ý của nó thì không thể phớt
lờ. Một số tướng lĩnh Syria ủng hộ việc thẳng tiến tấn công, tranh
luận rằng nếu làm như thế, Ai Cập sẽ thấy buộc phải tiếp tục chiến
đấu. Tuy nhiên, những người khác, lại phản bác rằng sự tiếp diễn
chiến tranh sẽ hợp pháp hóa nỗ lực của Israel trong việc tiêu diệt
tập đoàn quân số 3 của Ai Cập. Trong trường hợp này, Ai Cập sẽ
không giúp đỡ Syria nữa khi Israel quay lại dốc toàn lực ở hướng
bắc, phá hủy cơ sở hạ tầng của Syria và có thể tấn công cả
Damascus.
Cuối cùng thì Assad quyết định dừng cuộc tấn công, và vào ngày
23-10, Syria thông báo rằng họ chấp nhận lệnh ngừng bắn và chính
phủ Iraq hạ lệnh cho quân đội của họ trở về nhà.
Những cuộc đàm phán sau lệnh ngừng bắn
- Vào ngày 24-10, Hội đồng bảo an Liên Hợp Quốc thông qua nghị
quyết 339, ra lời kêu gọi mới cho tất các các bên tôn trọng triệt để
các điều kiện của lệnh ngừng bắn thiết lập trong nghị quyết 338.
Giao tranh trên tất cả các mặt trận kết thúc vào ngày 26-10. Lệnh
ngừng bắn không chấm dứt những giao tranh lẻ tẻ dọc theo tuyến
ranh giới ngừng bắn, và nó cũng không làm mất đi tình trạng căng
thẳng quân sự. Tập đoàn quân số 3 của Ai Cập, bị cắt đứt khỏi mọi
phương thức tiếp tế, là một con tin hiệu quả cho người Do Thái.
Israel nhận được lời đe dọa của Kissinger sẽ ủng hộ một nghị
quyết rút quân của Liên Hợp Quốc, nhưng trước khi họ có thể trả
lời, cố vấn an ninh quốc gia Ai Cập Hafez Ismail đã gửi cho
Kissinger một lời nhắn cực kỳ bất ngờ - Ai Cập sẵn lòng thương
thuyết trực tiếp với Israel, với điều kiện là Israel phải đồng ý cho
những cuộc tiếp tế phi quân sự cho đội quân của Ai Cập và đồng ý
với một lệnh ngừng bắn hoàn toàn.
Cuộc thương lượng được tổ chức vào ngày 28-10, giữa thiếu tướng
Israel Aharon Yariv và thiếu tướng Ai Cập Abdel Ghani el-
Gamasy. Cuối cùng, Kissinger đưa ra đề nghị với Sadat, người đã
đồng ý hầu hết mà không tranh cãi gì thêm. Các trạm kiểm soát
của Liên Hợp Quốc được dựng lên thay thế cho các trạm kiểm soát
của Israel, các cuộc tiếp tế phi quân sự được cho phép đi qua và
các tù binh chiến tranh được trao đổi. Một hội nghị thượng đỉnh tại
Geneva được tổ chức tiếp sau đó, và rốt cuộc, một thỏa thuận đình
chiến được tiến hành. Vào ngày 18-1, Israel ký một thỏa thuận rút
lui sang phía đông kênh đào, và đội quân cuối cùng của họ đã rút
đi khỏi bờ tây kênh đào vào ngày 5-3-1974.
Ở mặt trận Syria, những chuyến ngoại giao con thoi của Henry
Kissinger cũng đưa ra được một thỏa thuận ràng buộc vào ngày 31-
5-1974, dựa trên sự trao đổi tù binh chiến tranh, Israel rút quân về
đường ranh giới tía và sự thành lập vùng đệm an ninh của Liên
Hợp Quốc. Israel buộc tội Syria tra tấn tù binh của họ, vi phạm
công ước Geneva. Thỏa thuận này đã chấm dứt những đụng độ nhỏ
và những cuộc đấu pháo xảy ra thường xuyên dọc theo ranh giới
- ngừng bắn Israel-Syria. Lực lượng quan sát viên không can dự của
Liên hợp quốc (UNDOF) được thành lập với tư cách là lực lượng
gìn giữ hòa bình ở Golan.
( tổng hợp )
nguon tai.lieu . vn