Xem mẫu

  1. Thông báo Khoa học và Công nghệ * Số 2-2013 23 BẢN CHẤT CỦA KHOA HỌC THEO QUAN ĐIỂM MÁC XÍT ThS. Nguyễn Thị Hoa Kiều Khoa Lý luận Chính trị, Trường Đại học Xây dựng Miền Trung Tóm tắt: Trong suốt tiến trình phát triển lịch sử tư tưởng nhân loại, bản chất khoa học theo quan điểm Mác-xít luôn là đối tượng nghiên cứu của khoa học trong quá trình xây dựng quan điểm, đường lối, chính sách và chủ trương trong sự nghiệp xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Từ khóa: Hệ thống các quan điểm Mác xít về bản chất của khoa học. Khoa học là hệ thống tri thức được và xi măng, sinh lực Paster (sự sống) và tích luỹ trong quá trình lịch sử và được đồng hồ bấm giây đo giờ. Từ cuộc cách thực tiễn chứng minh, phản ánh những mạng này công trường thủ công đã quy luật khách quan của thế giới bên chuyển mạnh sang nền đại cơ khí. ngoài cũng như những hoạt động tinh thần - Cuộc cách mạng lần thứ năm diễn của con người, giúp con người có khả ra từ giữa thế kỷ XX cho đến nay, đó là năng cải tạo thế giới hiện thực. Nói một cuọc cách mạng khoa học - công nghệ, tạo cách khác, khoa học là một hệ thống tri ra những bước ngoặt lớn về năng lượng, thức bao gồm những quy luật về tự nhiên, vật liệu, sinh học, thời gian,... xã hội và tư duy, là kết quả của quá trình Nhận thức của loài người phân chia con người nhận thức và cải tạo thế giới, thế giới thành những lĩnh vực khác nhau nó được thể hiện bằng những khái niệm, (tự nhiên, xã hội và tư duy). Căn cứ vào những quy luật, phạm trù, phán đoán hoặc tính chất của từng lĩnh vực đã hình thành những học thuyết,… nên các lĩnh vực khoa học với những đặc Lịch sử phát triển khoa học nhân trưng riêng, biểu hiện, chức năng, nhiệm loại cho đến nay đã trải qua 5 cuộc cách vụ đối với đối tượng nghiên cứu. Lịch sử mạng lớn: phát triển khoa học nhân loại đã chia khoa - Cuộc cách mạng lần thứ nhất diễn học thành 3 lĩnh vực: ra vào khoảng 500.000 - 3000 năm TCN - Lĩnh vực khoa học tự nhiên: phát với việc phát minh ra lửa của những hiện những quy luật về giới tự nhiên, người vô danh. đồng thời xây dựng những cơ sở lý - Cuộc cách mạng lần thứ hai diễn thuyết để phát triển sản xuất. Ở Phương ra vào khoảng 3000 TCN - 500 năm SCN Tây, khoa học tự nhiên xuất hiện từ thời với việc phát minh ra kim loại (đồ sắt và kỳ cổ đại, và nó trở thành khoa học hiện đồ đồng). đại khi Phương thức sản xuất Tư bản chủ - Cuộc cách mạng lần thứ ba diễn ra nghĩa xuất hiện. Mới đầu là sự hình thành vào khoảng thế kỷ XVII, XVIII với việc các vật thể thiên văn, rồi đến vật lý, hoá phát minh ra động cơ chạy bằng sức gió, học, sinh vật học,... Nhưng các khoa học sức nước. tự nhiên vào những giai đoạn nhất định - Cuộc cách mạng lần thứ tư diễn ra chỉ được xem xét một cách rời rạc cho vào khoảng thế kỷ XVII, XIX với việc nên đã trở thành nguyên nhân cho sự xuất phát minh ra máy hơi nước, sản xuất thép hiện của siêu hình học. Tuy nhiên, đến
  2. Thông báo Khoa học và Công nghệ * Số 2-2013 24 thế kỷ XVIII, XIX tư tưởng về sự thống thì mỗi một khoa học đều phải bảo đảm nhất của giới tự nhiên và về thuyết tiến các yếu tố như: hoá dần dần hình thành, đặc biệt với việc - Tri thức kinh nghiệm, là những sự tìm ra tế bào hữu cơ, quy luật bảo toàn và việc, sự kiện và sự mô tả dựa trên kinh chuyển hoá năng lượng, học thuyết tiến nghiệm, nhận xét thí nghiệm,... hoá đã tạo ra những tiền đề mang tính - Tri thức lý luận, là những phán khoa học sát thực cho việc hình thành đoán dựa trên các giả thuyết, quy luật. chủ nghãi duy vật biện chứng, và do đó, - Phương pháp và cách thức xử lý siêu hình học mất dần chỗ đứng. thông tin, bao gồm phương pháp luận là - Lĩnh vực khoa học xã hội: được phép biện chứng duy vật và những hình thành lần đầu tiên dưới chế độ Tư phương pháp nghiên cứu chuyên biệt, bản chủ nghĩa do Đin-Tây (Dilthey - những kỹ thuật nghiên cứu. người Đức) và Ô-guýt-com-tơ (A.Comte - Những giả thuyết và kết luận triết - người Pháp) sáng lập. Tuy nhiên, khoa học, là kết quả tổng hợp được tạo ra học xã hội do những nhà khoa học này trong quá trình nghiên cứu. Đó là nội sáng lập chỉ gắn với lợi ích và cơ sở dung chủ yếu những tri thức khoa học kinh tế của giai cấp tư sản. Khoa học xã được hệ thống và khái quát hoá, được hội chân chính được Mác - Ăngghen xây dựng thành lôgíc khoa học và được sáng lập vào thế kỷ XIX, đó là khoa học thể hiện trong công trình nghiên cứu hoàn toàn duy vật về lịch sử, về quy luật bằng phương pháp trình bày, ngôn ngữ phát triển của xã hội. và văn phong khoa học. Những kết luận - Lĩnh vực khoa học có tính kỹ triết học của khoa học bao giờ cũng có thuật: gắn liền với khoa học kỹ thuật vai trò, vị trí quan trọng trong sự phát hiện đang phát triển: Nghiên cứu quy triển của khoa học, của chính bản thân luật của kỹ thuật và công nghệ, khả năng triết học nói riêng và xã hội nói chung. áp dụng vào sản xuất, hợp nhất khoa học Đây chính là sự kết tinh những giá trị tự nhiên và khoa học xã hội để tạo ra tinh tuý nhất được rút ra từ quá trình một chất lượng mới. nghiên cứu, nó phản ánh trình độ tư Tuy nhiên, việc phần loại các khoa tưởng khoa học. Vì vậy, mọi khoa học học nói trên chỉ có tính tương đối bởi vì, trên bước đường phát triển của mình cần trên thực tế có những môn khoa học có phải thấm nhuần tinh thần và phương thể xếp vào khoa học tự nhiên hay khoa pháp triết học, không được lẫn tránh học xã hội đều được (Y học, tâm lý những vấn đề của triết học (về bản thể học,...). Đặc biệt là những khoa học có luận và nhận thức luận). Tùy thuộc vào cấu trúc rất chung (như điều khiển học) đặc trưng, tính chất của các khoa học không thuộc vào loại nào nhưng vẫn áp khác nhau mà nó được khái quát hoá, dụng cho cả ba loại. Triết học là khoa trừu tượng hoá và cụ thể hoá. Độ sâu sắc học nghiên cứu những quy luật chung và tính triệt để của khoa học được thể nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy. Dù hiện trong những bình luận và những kết khoa học có được phân chia như thế nào luận của triết học, song chính những kết
  3. Thông báo Khoa học và Công nghệ * Số 2-2013 25 luận triết học sẽ trở thành nguồn cung cấp nhận thức và thúc đẩy hành động cấp thế giới quan và phương pháp luận của con người trong việc cải tạo tự cho các khoa học. Nhờ vào sự trang bị nhiên đúng quy luật mà còn đưa con này của triết học, các khoa học đã nâng người từng bước vươn đến tự do. Với ý mình lên một tầm cao mới, tầm cao của nghĩa đó, khoa học là sản phẩm biểu triết học. Viện sĩ F.Lô-rốp tại Hội nghị hiện sự khôn ngoan của trí tuệ con triết học thế giới lần thứ 18 (tổ chức tại người, nó được xem là nguồn “tài Anh) đã khẳng định rằng: “Triết học nguyên đặc biệt” và vô tận của xã hội không bao giờ mất đi vị thế xã hội của loài người. nó. Xã hội càng tiến sâu vào các quá Sự gia tăng hàm lượng trí tuệ của trình phát triển bao nhiêu càng cần đến khoa học tương ứng với sự phát triển sự có mặt của những tư tưởng triết học của thực tiễn, yêu cầu: “Khoa học phải bấy nhiêu. Không phải giờ phút cáo biến thành công nghệ để phục vụ sản chung của triết học đã điểm, trái lại, xuất phát triển kinh tế. Nghiên cứu phải chính lúc này, trước những bước ngoặt dẫn tới ứng dụng và triển khai công lớn của lịch sử và của khoa học triết học nghệ, công nghệ chỉ thật sự là công nghệ mới đang thực sự bắt đầu giờ “sáng khi nền tảng lý thuyết khoa học của nó sao” của nó” [1]. thực sự vững chãi. Và, ứng dụng chỉ Khoa học vốn là sản phẩm của tư thực sự có kết quả, đảm bảo chất lượng duy cải biến hiện thực, nhưng nếu không ở độ tin cậy khi những nhiệm vụ, mục thông qua hoạt động của con người mà tiêu của nghiên cứu lý thuyết đã thực sự chỉ tự bản thân nó thôi thì không thể tạo được giải quyết một cách thấu triệt, nên sự biến đổi trong đời sống xã hội, nghiêm túc” [2]. như Mác nói, “khoa học không thể biến Phép biện chứng duy vật là tinh thành cái gì cả, không thể sinh ra tác hoa của trí tuệ nhân loại được Mác - động tích cực hay tiêu cực”. Khoa học Ăngghen đúc kết và Lênin phát triển chính là một biểu tượng về sức mạnh của trên cơ sở những thành tựu của triết học, trí tuệ con người. Nhờ vào tính năng của của khoa học hiện đại và thực tiễn lịch khoa học, con người từng bước khám phá sử nhân loại. Những khái niệm, những giới tự nhiên và xã hội, trong đó, con phạm trù, nguyên lý, quy luật và những người từng bước lần tìm ra quy luật vận phương pháp cơ bản của nó mang tính động của chúng và đưa ra phương cách phổ quát. Chúng bao quát, tác động, chi hành động thích hợp nhất. Hơn thế nữa, phối giới tự nhiên, xã hội và tư duy con nhờ vào khoa học, con người khám phá người ở mọi nơi trong mọi giai đoạn lịch ra chính quy luật tồn tại, vận động của sử. Chính vì vậy, Phép biện chứng duy chính bản thân mình, coi mình là đối vật đã trở thành thế giới quan và phương tượng của sự nghiên cứu để từ đó tạo ra pháp luận cho hoạt động của nhận thức một hệ thống những tri thức, những và hoạt động thực tiễn của con người. hiểu biết về loài người. Với sự sáng Cùng với chủ nghĩa duy vật biện suốt của lý trí, khoa học không chỉ cung chứng, Chủ nghĩa duy vật lịch sử là một
  4. Thông báo Khoa học và Công nghệ * Số 2-2013 26 phát kiến khoa học vĩ đại của Mác ghi Về mặt thời gian, triết học Mác đậm dấu ấn cách mạng về khoa học của luôn thể hiện mình trong những giai đoạn nhân loại. Theo Ăngghen, đối với Mác, lịch sử khác nhau của sự phát triển khoa khoa học là một động lực lịch sử, một lực học và công nghệ, thực tiễn sản xuất, lượng cách mạng. Nói về bản chất koa phong trào cộng sản và công nhân quốc học và vai trò của nó Mác cho rằng, “tư tế qua các cuộc cách mạng. Trong toàn bản có tính chất sản xuất...và lực lượng bộ quá trình hoạt động thực tiễn, triết học sản xuất xã hội chung (như khoa học Mác luôn giữ vai trò định hướng thế giới chẳng hạn)”. Rõ ràng, Mác đã đề cao vai quan và phương pháp luận cho hoạt động trò của khoa học trong lịch sử phát triển của con người đồng thời được chính lịch của xã hội loài người. Trong tác phẩm sử “phản biện”, kiểm nghiệm và làm “Gia đình thần thánh” Mác đã từng phong phú bằng chính hơi thở của thời bước làm rõ vai trò của tư tưởng, của lý đại. Ăngghen đã nhấn mạnh rằng lý luận luận khoa học. Mác khẳng định: “Tư của ông và Mác không phải là giáo điều, tưởng căn bản không thể trở thành cái gì mà là lý luận mở và là kim chỉ nam cho hết. Muốn sử dụng tư tưởng thì cần có mọi hành động. những con người sử dụng lực lượng thực Về mặt không gian, đó chính là tính tiễn” (theo Mác, ở đây là tư tưởng khoa sáng tạo và tính thích nghi của triết học học). Theo đó, tự bản thân khoa học Mác khi được vận dụng vào thực tiễn không thể tạo ra bất kỳ một tác động nào, cách mạng ở các dân tộc, các quốc gia mà phải thông qua sự vận dụng và hoạt khác nhau. Về điều này Lênin đã chỉ rõ động thực tiễn của con người thì nó mới “Chúng ta tuyệt đối không coi lý luận của phát huy tác dụng. Mác là một cái gì đó nhất thành bất biến Triết học Mác ra đời với những nội dung và không thể xâm phạm, mà trái lại tiến bộ là một cuộc cách mạng về khoa chúng ta tin rằng nó chỉ đặt cơ sở cho học lý luận của nhân loại. Nó không chỉ một khoa học, và những người xã hội chủ là sự kế thừa những thành tựu khoa học, nghĩa, nếu không muốn lạc hậu với đời triết học trước đó của nhân loại mà còn là sống thực tế, cần đẩy môn khoa học này sự khái quát kinh nghiệm thực tiễn của tiến lên phía trước trên mọi phương xã hội loài người, nhất là thực tiễn cách diện”. mạng xã hội. Không ai khác, chính Mác Trong xã hội hiện đại ngày nay, đã đưa phạm trù thực tiễn vào triết học, triết học Mác ngày càng có vai trò to lớn coi đó là cơ sở, động lực, mục đích của trong việc cải tạo hiện thực, hệ thống triết nhận thức và là tiêu chuẩn khách quan để học Mác cần phải được mở rộng và kiểm nghiệm tính đúng đắn của chân lý. thường xuyên bổ sung, phát triển những Vì vậy, sự thống nhất giữa lý luận và nội dung mới từ quá trình cải tạo tự nhiên thực tiễn trở thành nguyên tắc nền tảng - xã hội. Quả thật, triết học Mác đã và của triết học Mác, và sự thống nhất đó đang thể hiện được vai trò đó bởi vì: Nó được biểu hiện trên cả hai phương diện luôn hướng về thực tiễn - xã hội và lịch không gian và thời gian:
  5. Thông báo Khoa học và Công nghệ * Số 2-2013 27 sử, hướng về thời đại, về tương lai; Nó thức phong trào công nhân quốc tế, “ba bác bỏ chủ nghĩa bè phái và luôn tỏ rõ dòng thác cách mạng” trên thế giới và dự thái độ đúng đắn với mọi triết học phi báo về các phong trào cách mạng này. Mác-xít; Với tư cách là Phép biện chứng Thứ năm, phân tích những vấn đề duy vật, nó luôn có khả năng tự điểu triết học mới nảy sinh. chỉnh, tự đổi mới và phát triển. Cả Mác Thứ sáu, phân tích các trào lưu - Ăngghen và Lênin đều khẳng định, triết học phương Tây hiện đại, những không có một học thuyết nào đạt tới vấn đề lý luận và cuộc sống hiện nay, chân lý tuyệt đích, và triết học Mác tiến hành đấu tranh chống mọi quan cũng không ngoại lệ. điểm thù địch, bảo vệ bản chất khoa Vấn đề được đặt ra với triết học học và cách mạng của triết học Mác, Mác trong xã hội hiện đại là: góp phẩn thúc đẩy khoa học và thực Thứ nhất, nhận thức cuộc cách tiễn phát triển. mạng khoa học, công nghệ hiện đại và Chủ nghĩa Mác - Lênin và tư những thành tựu của nó, tìm ra bản chất tưởng Hồ Chí Minh là lý thuyết khoa đích thực của cuộc cách mạng này, xem học có vai trò to lớn trong việc cung cấp xét quy luật phát triển và dự bào tương những luận cứ cho việc xây dựng chủ lai của nó. trương, đường lối, chính sách của Đảng Thứ hai, nhận thức quá trình toàn và Nhà nước trong sự nghiệp xây dựng cầu hoá để trên cơ sở đó đánh giá hiệu Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Nội dung quả tác động của nó đối đời sống con của Chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng người và mọi lĩnh vực khác của đời Hồ Chí Minh luôn được xác định là cơ sống xã hội, bổ sung những yếu tố sở khoa học để làm sáng tỏ các vấn đề những yếu tố cần thiết cho chủ nghĩa thuộc của Chủ nghĩa xã hội và con duy vật lịch sử. đường đi lên Chủ nghĩa xã hội. Chính Thứ ba, nhận thức Chủ nghĩa tư chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ bản hiện đại, nhất là chủ nghĩa tư bản Chí Minh với bản chất khoa học và cách toàn cầu hoá. là nền tảng khoa học hiện đại, phục vụ Thứ tư, nhận thức sự khủng hoảng trực tiếp đường lối chính trị, hoạch định của chủ nghĩa tư bản hiện thức, nhận chiến lược phát triển xã hội. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Giá trị pháp lý của Tuyên ngôn độc lập, http://www.cpv.org.vn/. [2] Phạm Khiêm Ích, Hoàng Văn Hảo (chủ biên). 1995. Quyền con người trong thế giới hiện đại, Viện Thông tin Khoa học xã hội, Hà Nội. [3] Dẫn theo Hoàng Chí Bảo. 2006. Xây dựng cơ chế dân chủ trong nghiên cứu khoa học xã hội - nhân văn ở nước ta hiện nay, NXB CTQG, HN, tr.36. [4] Mác - Ăngghen Tuyển tập, Tập 5, NXB ST, HN, 1983, tr.241-242. [5] Hữu Ngọc, Dương Phú Hiệp, Lê Hữu Tầng. 1987. Từ điển triết học giản yếu, NXB THCN, HN, tr.231.
nguon tai.lieu . vn