Xem mẫu
- BAN CAO
Bản Cáo là một bản nằm phía Bắc xã Lâm Hóa, giáp với xã Thanh
Hóa bên cạnh đường Mòn Hồ Chí Minh, từ trụ sở xã đến b ản kho ảng
5km, trước kia đồng bào sống ở bản Cáo trong cách bản Cáo ngày nay
khoảng 4 km theo đường rừng. Bản Cáo hiện nay còn gọi là b ản Núng vì
nó nằm dọc bên hữu khe Núng, gồm có hai xóm: tây đường Mòn có diện
tích đất thổ cư 4,4 ha và đông đường Mòn có diện tích đất thổ cư 1ha.
Đồng bào cư trú tập trung phía tây đường Mòn 18 hộ làm nhà m ặt
hướng về phía khe Núng và đường Mòn, lưng dựa vào núi và phía đông
đường Mòn 2 hộ trước mặt là đường Mòn, sau lưng là cánh đồng trồng
hoa màu. Đồng bào đã sống định cư không còn suy nghĩ bỏ làng bản đi nơi
khác nhưng nước sinh hoạt, nước sản xuất hầu hết là nước khe Núng, c ả
bản chỉ có 3 gia đình sử dụng nước giếng, đất sản xuất đặc bi ệt là ru ộng
nước rất khan hiếm (cả bản có 3 sào ruộng). trước đây trong cuộc sống
du canh du cư thì mổi khi trong bản có người ch ết, chôn c ất xong c ả b ản
lại chuyển đi nơi khác sinh sống, ngày nay không như vậy n ữa, khi có
người chết đồng bào chôn cất ở nghĩa địa riêng của bản nằm phía sau bản
phía Tây đường Mòn. Khi chôn người chết có chia một ít tài sản t ượng
trưng như 1 cái múng, một chiếc giống, một bỏ củi, một đôi chến đua, hai
cái chai, chôn xong là hết, người dân ở đây không bi ết đ ến các kh ải ni ệm
lễ mở cửa mả, hay lễ bỏ mả mà chôn xong là quên luôn.
Bản Cáo là một bản nằm dưới chân núi nhưng không phải là thung
lũng mà là ở sườn núi có độ dóc thoai thoải, trước mặt là khe Núng n ước
dồi dào quanh năm. Diện tích đất tự nhiên của bản? diện tích đất lúa
nước 0,3ha, đất hoa màu dọc sông suối là là đất phù sa 5,7 ha, trong đó có
2,7 ha đất sản xuất ổn định, đất trồng hoa màu ch ỉ là các bãi bi ền ven
sông khi sông bồi thì có đất sản xuất khi đất lở thì không, đất rừng 16,3
ha được giao cho đồng bào quán lí. Khí hậu ở đây có hai mùa rõ rệt, mùa
nắng thướng dẫn đến hiện tượng hạn hán, mùa mưa kéo dài từ tháng 8
đến tháng 3 năm sau gây trở ngại cho bà con trong vi ệc lên r ừng tìm ki ếm
1
- thức ăn và thường xuyên xảy ra lũ lụt gây nhi ều thi ệt h ại cho bà con. Tài
nguyên rừng khoảng trước 2001 rất đa dạng về chủng loại, phong phú v ề
số lượng, nhưng ngày nay do người Kinh ở các xã Thanh Thạch, Thanh
Hóa và Lâm Hóa khai thác rừng bừa bãi làm cho các loài động vật không
có nơi ấn náu phải bỏ đi hoặc do các phương tiện khai thác quá tinh vi
của những người Kinh từ miền xuôi lên làm cho các loài động th ực vật
quý hiếm ở các khu rửng trở nên khan hiếm, các loại gỗ quý không còn.
Vì vậy, hiện nay đồng bào không còn hiện tượng vào rừng săn bắt các
loại thú rừng, có chăng thì chỉ bẩy gà và đi hái măng, lấy lá nón, l ấy mây
hoặc lấy mật ong về bán cho người Kinh ở các chợ lưu động.
Như vậy, diều kiện tự nhiên đã khắc nghiệt, đất sản xuất ít ỏi, thêm
vào đó là chính sách khai thác rừng đầu nguồn không hợp lý không chỉ là
cho các loài động thực vật suy giảm mà còn ra hạn hán, lũ lụt không ch ỉ
đồng bào dân tộc khốn khổ mà những người Kinh ở đồng bằng cũng thiệt
hại không kém, làm cho rừng không còn là vòng tay c ủa m ẹ hi ền nâng niu
cuộc sống đồng bào nữa. Nguồn nước bà con đang sử dụng có nguy cơ ô
nhiễm bởi việc vận chuyển và khai thác gỗ thường xuyên đầu ngu ồn c ủa
người Kinh.
Về cơ sở hạ tầng: Bản Cáo nằm bên cạnh đường Mòn nên giao
thông đi lại thuận tiện, con đường vào bản phía Tây đường Mòn Hồ Chí
Minh mặc dù chưa được nhựa hóa nhưng lòng đường rộng gần 3m vào
đến nhà cuối cùng của bản nên thuận tiện cho vi ệc đi lạ v ận chuy ển c ủa
người dân. Do đời sồng còn thiếu thốn và khó khăn nên phương tiện đi lại
của bà con vẫn là đôi chân trần, mọi vật đều vận chuy ển bằng đôi vai.
Mọi sản vật làm ra đều được người Kinh vào tận bản đ ể mua nh ưng giá
cả thiệt thòi rất nhiều cho đồng bào.
Nhà cửa được làm bằng gỗ, 20 hộ với 20 ngôi nhà trong đó có 18 ngôi
nhà do dự án Định canh định cư và Đại sứ quán Australia hỗ trợ là nhà sàn
hai gian, thưng che bằng ván, diện tích 20m2, cao khoảng 4- 4,5m, tất cả
các bộ phận đều bằng gỗ, nguồn vật liệu này do bà con lấy từ rừng về
được sự hỗ trợ của chính quyền địa phương. Các nhà đầu tư đa hỗ trợ
2
- vốn, kỹ thuật để dựng nên những ngôi nhà với kỹ thuật bào đẽo tinh vi
làm cho ngôi nhà khang trang thoáng mát hơn ngôi nhà truyền thống với kỹ
thuật khắc ngoặm buộc giây tạm bợ như trước kia của đồng bào. Do
cuộc sống qua khó khăn nên bên trong ngôi nhà không có trang trí hay bài
vẽ nội thất. Theo ngôi nhà truyền thống thì bếp chính đ ặt đối di ện v ới
buông thiêng nơi thơ ma Cumuych hưng ngày nay do không gian nhà không
được rộng nên đồng bào làm thêm một ngôi nhà sàn theo kiểu truy ền
thống để đặt bếp còn nhà sàn do các dự án hỗ trợ là nởi nghỉ ngơi và để
lương thực, nếu nhà nào có tivi thí để owr gian chính. 20 ngôi nhà t ại b ản
cáo mà chỉ còn một bàn thờ ma, những nghi th ức truy ền th ồng đã và đang
dần lãng quên trong trí nhớ của người dân nơi dây.
Bên cạnh nhà chính thì những gia đình có sản ph ụ gần sinh, ng ười
chồng làm một cái trại khoảng 4m 2 cách nhà chính khoảng 3-5m để sản
phụ sinh, sau khi sinh 5 đến 7 ngày thì sản phụ tám rửa sạch s ẽ và được
lên nhà chính, sau đó ngôi nhà này bị dở bỏ. Ngày nay, không còn làm
nương rẫy nữa nên không còn các trại hoặc chòi canh rẫy, mà đồng bào
sản xuất gần nhà, hai buổi ra đồng tối lại về nhà nghỉ ngơi.
Bên cạnh nhưng ngôi nhà dân thì có một ngôi nhà cộng đồng nh ưng
không có chút gì gọi là dặc trưng, ngôi nhà cộng đồng cung là m ột ngôi
nhà sàn hai gian diện tích khảng 25m2, trước nhà cộng đồng có mtj cái sân
rộng khoảng 7m2, ngôi nhà này được Đại sứ quán Australia hỗ trợ từ năm
2007 bắt đầu năm 2008 thì hoàn thành nhưng chưa bàn giao vì vậy mổi
lần trong bản có hội họp lại phải mượn nhà dân hoặc đến trường học.
Mặc dù nằm ở khu vực trung tâm nhưng ở một địa thế không thuận tiện
vì đằng sau là núi dốc, còn trước sân lại quá hẹp, bên trong cũng không
rộng, hệ thống điện cũng chưa hoàn thành trong khi ngôi nhà đã có mối
mọt bám vào cột. Đây là ột điều đáng quan tâm trong việc bàn giao nhà
cho đồng bào để có nơi sinh hoạt, nối kết tình đoàn kết c ủa mổi ng ười
dân trong bản.
3
- Trường học chưa được đầu tư, cả bản có 3 phòng h ọc nhà gỗ quá cũ
kỹ và mối mọt đang có nguy cơ sụp đổ, trong 3 phòng thì có một phòng
mượn của một hộ gia đình bên cạnh.
Nguồn nước rất quan trọng cho cuộc sống nhưng hiện tại bà con
trong bản đang phải uống nước suối nguồi nước đang có nguy cơ ô nhiễm
do sự khai thác và vận chuyển gỗ vượt mức của người Kinh ở các xã lân
cận. Phương tiện thông tin đại chúng, dân bản vẫn chưa có sự trợ giúp về
phương tiện thông tin mà chỉ những gia đình nào có khả năng thì tự mua
sắm, vì vậy cả bản đa có 10 chiếc tivi và 5 bộ loa máy nên đã giảm bớt
được sự mù thông tin trong bản.
Để phục vụ cho việc chăn nuôi đồng bào đã làm chuồng trại nuôi trâu
bò lợn gà nhưng còn rất sơ sài, chuồng trại chưa đảm b ảo h ợp v ệ sinh vì
vậy việc nuôi lợn gà chưa có hiệu quả. Cuối năm 2008 vừa qua, Dự án
135 đã hỗ trợ những gia đình có trâu bò 1 triệu đồng để làm chuồng. Vì
vậy một số hộ gia đình đã có các chuồng trại vững chắc cho gia súc trú
ngụ vào mùa đông và để lấy phân xanh phục vụ sản xuất.
Dân cư: bản Cáo gồm 20 hộ: 97 khẩu, tỉ lệ tăng dân s ố khá nhanh,t ư
năm 2002 đến nay tăng 20 người, cũng từ năm ổn định trong vi ệc đ ịnh
canh định cư tói nay không có một trẻ sơ sinh nào chết, người già trong
những năm này chết 3 người. Hiện nay số người già trên 48 tuổi ch ỉ có 2
người còn lại là dưới 48 tuổi, như vậy bản Cáo thuộc dân số trẻ, tất cả
đồng bào ở đây là người Mã Liềng sống định cư tại bản Cáo ngày nay t ừ
năm 2000 do chính sách định canh định cư và sự vận động của bà Ph ạm
Thị Lâm trưởng bản, một người sống định cư tạo bản Cáo ngày nay nă
1990. Trước năm 1990, những người Mã Liềng này sống du canh du cư
theo các ngọn khe, nay đây mai đó theo mùa rẫy và theo nguồn thức ăn sẵn
có trong tự nhiên. Năm 1990, họ bắt đầu sinh sống t ại b ản cáo trong cách
bản Cáo ngày nay 5km theo đường rừng vào đầu ngọn suối. Đến năm
1991, nhà nước cố vận động bà con ra sống định cư chỉ được 3 tháng đòng
bào lại vào rừng vì lúc đàu nhà nước hứa sẽ chu cấp th ức ăn cho h ọ trong
6 tháng nhưng thiếu ngân sách không thực hiện được. Đầu năm 2000,
4
- Phạm Thị Lâm vận động và đưa 2 hộ ra sống định canh, đ ến cu ối năm đó
vận động thêm 4 hộ nữa và đến đầu năm 2002 thì đã hoàn thành vi ệc đinh
canh định cư. Trong thời gian đầu đầy khó khăn gian kh ổ, đ ồng bào không
muốn sống ở đây mà chỉ muốn vào rừng, bà Lâm đã an ủi, giúp đỡ g ạo
cơm, lúc không còn nữa bà đã đi mua nợ gạo cho những gia đình định cư
năm 2000 làm nhà, sau đó nhà nước có h ỗ trợ 800.000 đ ồng một gia đình.
Như vậy, qua việc làm của bà Lâm ta thấy được công lao to lớn để đưa
đồng bào định anh định cư. Ngày nay, với vai trò là trưởng bản bà đã tuyên
truyên giúp đỡ những hộ khó khăn, chỉ dẫn hco họ trong việc sản xuất các
loại hoa màu nên mặc dù là vùng không có ruộng nước nhưng không đói,
không thiếu các loại hoa màu cho những bữa ăn phụ trong gia đình.
Nhìn tổng quan trong ban chưa có hiện tượng phận biệt kẻ giàu
người nghèo, hầu hết các gia đíh sản uất chỉ đủ ăn trong 6 tháng, các
tháng còn lại nhờ sự trợ cấp của nhà nước và vào rừng kiếm thêm các sản
phẩm núi rừng mạng về bán cho người Kinh để đổi gạo và các đồ dùng
khác.
Về kinh tế: từ năm 2004, sau khi thực hiện chính sách đ ịnh canh đ ịnh
cư đến nay, đồng bào không còn vào rừng phát nương làm rẫy n ữa, ngoài
sự trợ giúp lương thực của nhà nươc họ đã khai hoang các bãi biền ven
sông để làm hoa màu. Diện tích 5,7ha trong đó đất sản xuất ổn định chỉ có
2,7 ha, còn lại khi lũ lụt đát bồi thì đồng bào có đất sản xuất, khi đ ất lở
thì không. Các loại giống cây trồng và phân bón đều được nhà n ươc h ỗ
trợ. Các loại cây trồng chủ yếu là ngô, đậu xanh, lạc. Do khí h ậu hai mùa
mưa và khô rõ rệt nên lướng đất này không canh tác cả năm, vào đầu
tháng 12 bắt đầu gieo hạt, tháng 1 làm cỏ bón phân, đ ến tháng năm thì thu
hoạch, tháng 6 làm đất gieo đậu xanh tháng 8 thu hoạch xong và các tháng
tiếp theo là mùa mưa lũ nên đồng bào ch ỉ hái lượm nh ững s ản ph ẩm ph ụ.
Bản Cáo có 20 hộ gia đình nhưng chi có 3 sào ruộng nên công việc chính
là làm hoa màu nhưng thời tiết khắc nghiệt nên có những năm mất trắng
như năm 2006, một cơn lũ quét đã mang đi toàn bộ cánh đồng đậu xanh
đang chuẩn bị ra quả, nhưng năm không lụt lớn thì năng suất cũng rất
5
- thấp, vào tháng 12 mới trỉa ngô và lạc nhưng nếu trời rét quá hạt sẽ không
mộc hoặc mộc rồi cũng không phát triển được, sang tháng 3 nếu trời nóng
quá sẽ dẫn đến thiếu nước trong thời kì ra hoa nên năng suất không cao.
Mặc dù thời tiết khắc nghiệt nhưng người dân rất hăng hái và chăm chỉ
làm ăn nên năm nào cùng không lo đói vì đồng bào trồng khá nhiều sắn.
Bên cạnh trồng hoa màu là chính, người Mã Liềng nơi đây đã bi ết
trồng rừng các loại cây tràm, keo,bạch đàn, trồng cây ăn quả do d ự án 135
hỗ trợ các loại cây bưởi, cam, chuối và các loại rau xanh theo quan sát của
chúng tôi thì năng suất khá cao nhưng rất tiếc chưa có một hộ gia đình nào
trồng một vườn cây thuần chúng mà là vườn tạp mổi loại có vài cây. Mặc
dù đất tốt phù hợp với các loại cây trồng nhưng bà con chưa có kỹ thuật
gieo trồng, chưa có nguồn nước tưới tiêu, cứ trồng là được, “sống ch ết
mặc bay”. Một điều đáng tiếc hơn, sống gần rừng, nguyên liệu dồi dào
nhưng đồng bào đã không còn bảo lưu được nghề thủ công truyền thống
như đan lát, có chăng chỉ là những sản phẩm thô sớ làm ra đ ể ph ục v ụ
cuộc sống gia đình mình, không có các nghề như dệt hay mộc gì cả.
Ngoài ra, để thêm khẩu vị bữa ăn trong cuộc sống hàng ngày người
Mã Liềng cũng vào rừng để kiếm các loại rau quả: hoa chuối, lỏi chuối,
đọt môn, đọt vóc, nấm, đặc biệt là măng về mùa mưa măng r ất nhi ều
những người phụ nữ vào rừng hái về ngoài việc phục vụ gia đình còn
phải trao đổi buôn bán với người Kinh, đánh bắt thủy sản dọc theo khe
Núng. Hiện nay những người đàn ông trong bản không còn vào rừng để
săn bắt vì các loại thú rừng đã cạn kiệt do chính sách khai thác b ừa bãi
của người Kinh, nếu họ có vào rừng thì chỉ bẩy gà nhưng gà cũng không
còn, họ chỉ vào rừng để lầy mây, đi tìm ong, khai thác gỗ phụ, l ấy nón
mang về đổi cho người Kinh để lấy những sản vật khác.
Do đời sống khó khăn và trình độ thất nên đồng bào còn xa l ạ v ới
việc buôn bán, những sản phảm làm ra họ trao đổi cho người Kinh ở các
chợ lưu động, hoặc mang tới quán của người Kinh để trao đổi nh ưng với
nhiều thiệt thòi thuộc về họ.
6
- Về trình độ văn hóa: 90 % người lớn mù chữ, số lượng người trong
độ tuổi đi học chiếm 50% nhưng chỉ có một nửa trong số đó đ ến tr ường.
Hệ thống trường lớp còn hết sức tạm bợ, có hai phòng vè một phòng
mượn ngôi nhà bên cạnh trường, chưa có trường mẫu giáo, trường làm
bằng nhà gỗ đã bị mối mọt đục khoét gần đổ. Giáo viên có 3 người đều là
những người Kinh từ dưới xuôi lên. Theo số liệu điều tra cụ thể: cấp 1 có
3 lớp: lớp 1 có 5 học sinh, lớp 3 có 6 h ọc sinh, l ớp 5 có 6 h ọc sinh; c ấp 2
có một lớp: lớp 6 có 4 học sinh; cấp 3 có 3 h ọc sinh; đ ại h ọc có 3 sinh
viên trong đó 1 sinh viên trường y khoa Huế, 2 sinh viên trường Đại học
Nông Lâm Huế. Như vậy mặc dù đời sống còn khó khăn nh ưng so vói các
bản người Mã Liềng khác thuộc huyện Tuyên Hóa thì bản Cáo là bản có
trình độ dân trí cao nhất trong khi là bản khó khăn nhất về đất sản xuất,
cũng là bản ít có dân số ít nhất trong 4 bản, c ả bản có 97 ng ười thì có 45
người trong độ tuổi đi học (5 đến 22 tuổi) trong đó có 27 người đi h ọc.
Để đạt được hiệu quả như vậy là công lao to lớn của người trưởng bản
đầy trách nhiệm Phậm Thị Lâm, bà đã vận động các em học sinh đến
trường, những bạn học hết cấp 3 không muốn tiếp tục đi h ọc vì ít ti ếp
xúc vói bên ngoài nên lo ngại, và là lực lượng lao đ ộng chính trong gia
đình nên không muốn đi, bà Lâm và cán bộ cắm bản đã an ủi, phân tích
cho gia đình hiểu được tầm quan trọng của việc h ọc nên h ọ đã thông su ốt
hơn, có những trường hợp có giấy báo nhập học của trường đại học gửi
về, đối tượng lo sợ việc đi học nên bỏ trốn, trưởng bản và càn bộ cắm
bản phải “bắt cóc” đưa đi học. Sự tiến bộ là như vậy nh ưng vấn đ ề giáo
dục cũng gặp không ít khó khăn, số lượng học sinh bỏ học ngày càng
nhiều vì gia đình khó khăn, học sinh cấp 1 vào mùa hề thì có th ể đ ến
trường đầy đủ nhưng về mùa đông các em thường vắng học, hiện tượng
học sinh cấp 1 vắng học không phải vì trường xa mà vì th ời ti ết quá l ạnh,
các em mặc không đủ ẩm, trường học lại bị dột và thưng che không đầy
đủ giáo viên cũng không chịu nổi làm sao h ọc sinh có th ể ch ịu đ ược. M ột
điều may mắn cho đồng bào là những giáo viên đến đây rất nhi ệt tình v ới
công việc, thầy đi từng nhà vận động học sinh đến trường. học sinh cấp 2
7
- bỏ học nhiều vì các êm đã là lực lượng lao động chính trong gia đình, bên
cạnh đó trường học lại cách bản 5km, phương tiện đi lại của các em
không có. Các bạn học cấp 3 được vào học trường nội trú của tỉnh, nhưng
lạ trường lạ bạn lại ít giao tiếp, không những thế có những lúc bị các bạn
khác ức hiếp nên không muốn đến trường. Những khó khăn và thuận lợi
luôn đi đôi với nhau nhưng chungsta phải làm gì để gi ảm b ớt vi ệc h ọc
sinh bỏ học là trách nhiệm của cán bộ các ban ngành địa phương cần đề
ra chính sách hợp lí để giáo dục tại thôn bản ngày càng phát triển hơn.
Bên cạnh giáo dục thì y tế cũng là một vấn đề h ết sức quan trọng,
mặc dù bản đã có y tá thôn bản nh ưng thiếu y c ụ và thu ốc men. Trong 10
năm trở lại đây số lượng người tử vong đã giảm h ẳn, không còn hi ện
tượng trẻ so sinh bị tử, những sản phụ lúc gần sinh nếu th ấy khó khăn thì
đến bệnh viện, nếu dễ sinh thì gọi y tá thôn bản giúp đ ỡ. Tuy v ậy, gia
đình khó khăn, kiếm cơm ăn ngày hai buổi còn khó khăn nên trẻ em sinh ra
không được chăm sóc chu đáo, 90% trẻ em bị suy dinh dưỡng. Mặc dù đ ời
sống khổ cực nhưng bệnh dịch lại ít xay ra, những người mắc bệnh
thường là những người làm việc quá sức, ăn uống lại không đầy đủ nên
thường xảy ra các bệnh suy nhược, thỉnh thoảng lại có các hiện t ượng
dịch tả nhưng không tràn lan cả bản, những người bệnh đã biết đến bệnh
viện để chữa trị, một số rất ít gia đình quá khó khăn không có ph ương
tiện để đến bệnh viện vì từ bản đến bệnh viện khoảng 18km nên h ọ m ời
thầy cúng đến thổi, cúng bói. Để phòng bệnh hằng năm cán bộ y tế
huyện, xã đến tận bản tiêm phòng định kỳ và phun thuốc diệt muỗi. Với
những hoạt động như vậy nên 10 năm trở lại đây không có hiện tượng
dịch bệnh xảy ra trong bản là một điều đáng ghi nhận.
Các dự án đầu tư
Có thể nói bản Cáo là một bản có số lượng dự án đầu tư vào r ất h ạn
chế. Nói tới dự án thì đầu tiên chúng ta phải nói là dự án định canh đinh
cư: từ năm 2000 heo chính sách định canh định cư của nhà nước nh ững
ngưới dân sống trong rừng dần dần được đưa ra sống định cư rên đát b ản
Cáo ngày nay. Những ngày đấu mới ra đòng bào làm nhà tạm bợ theo ki ểu
8
- truyền thống đến cuối năm 2005 dự án định canh định cư mới khởi công
làm nhà cho đồng bào với 13 ngôi nhà sàn bằng g ỗ hai gian,l ợp ngói, di ện
tích khoảng 25m2 nhà được thưng bằng phên nứa, sàn lát gỗ nhóm 5 do
nhâ dâ tự làm gỗ, trị giá mổi ngôi nhà là 15 tri ệu đ ồng. Đ ầu năm 2007
hoàn thành và đồng bào đã chuyển vào sống trong ngôi nhà đ ược gọi là
vững chắc và khang trang này nhưng chỉ sau hai năm những tấm phên băng
nứa kia tính bền vững không cao nên đã bị rách. Mạc dù vậy nhìn chung
thì dự án này cung đã thành công vì đồng bào không có suy nghĩ lafbor ngôi
nhà này mà vào rừng, họ đã biết sống ổn định để sản xuất, bên cạnh đó
họ thường xuyên được sự hỗ trợ cơm gạo từ nhà nước, những người
được hỏi đều trả lời thích sống ở đây.
Đầu năm 2007 Đai sứ quán Australia hỗ trợ 5 ngôi nhà dân v ới tr ị giá
18 triệu đồng và một ngôi nhà cộng đồng trị giá 30 tri ệu đ ồng, tất c ả các
ngôi nhà đều là nhà sàn giống ngôi nhà của Dự án định canh định cư
nhưng thưng bằng ván, năm 2008, các hộ gia đình đã chuy ển vào ngôi nhà
này sinh sống nhà dân nhìn chung ổn định nhưng nhà cộng đồng đã hoàn
thành từ năm 2008 đến nay vẫn chưa bàn giao. Nhà cộng đồng so v ới các
bản khác thì nó nhỏ hơn ngôn nhà chỉ 2 gian, diện tích 25m2, sân khoảng
8m2, ở vị trí so với bản là trung tâm nh ưng địa th ế không đ ẹp, phía sau là
núi dóc dựng đứng, trước lại là khe suối nên sân quá hẹp và điều qua
trọng là đến nay đồng bào cũng chưa có nhà cộng đồng để hội họp, theo
chúng tôi được biết thì bên trong ngôi nhà mạng lưới điện chưa hoàn
thành nhưng khi nhìn từ ngoài vào như một ngôi nhà dân và t ệ h ơn n ữa là
những chú mối đang tấn công trước sân cỏ dại mọc um tùm nhìn rất
hoang sơ. Đây là một điều đáng lo ngại khi chính quy ền ở đây không chú
ý tới.
Dự án 135 là dự án đầu tư thường xuyên và nhiều nhất không chỉ ở
các bản đồng bào mà còn cho cả người Kinh các vùng khó khăn.
Năm 2004, chương trình 135 hỗ trợ làm con đường đất nội bản,
đường dài khoảng 2km, rộng 2,5m, bắt đầu từ đường Mòn tới ngôi nhà
cuối cùng của bản và là con đường đi chính của đồng bào. Trước khi làm
9
- đường một năm dự án 135 có đầu tư trường bọc cho đồng bào nhưng là
ngôi trường thô sơ bằng gỗ, gồm hai phòng học, hiện nay đã bị mối mọt
đục khoét gần đổ, mặc dù thô sơ nhưng cũng là nơi truy ền thụ tri th ức
cho các em, nơi nuôi dưỡng những ước mơ của các em, cũng trong năm
này hệ thống điện cao thế được dự án hỗ trợ dụng cụ điện và có người
mắc hoàn chỉnh cho bà con trong bản. Ngoài ra, hằng năm dự án còn hỗ
trợ các loại giống cây trồng, vật nuôi, dụng cụ sản xuất như xe rò 2 gia
đình một chiếc và mổi gia đình một bộ cuốc xẻng, phân bón, nh ưng ch ỉ
các loại cây hoa màu được sản xuất đầy đủ và có hiệu quả vì đây là
nguồi sống chính của đồng bào, còn các loại cây trồng và vật nuôi khác
chưa có hiệu quả vì người dân chưa có kỹ thuật trồng, thiếu phân bón,
không chăm sóc. Cụ thể nhất năm 2008, dự án cung cấp cho mổi hộ gia
đình 25 cây bưởi nhưng số lượng cây sống chỉ chiếm 50%, 50 con gà con
nhưng số lượng sống và lớn khoảng 20%, lợn 9 con cho 3 h ộ nuôi thí
điểm nhưng không mang lại kết quả. Sở dĩ có hiện này vì chuồng nuôi
không đảm bảo, không có kỹ thuật chăn nuôi chăm sóc vật nuôi m ặc dù
dự án có cung cấp thức ăn cho vật nuôi. Trong tất ca các ch ương trình mà
135 thực hiện có thể nói hiệu quả nhất là hai chi ếc mày phay đ ất đã khai
thác được một diện tích đất tương đối rộng cho người dân sản xuất
nhưng hiện nay hai chiếc máy này đã hỏng cần khoảng 8 tri ệu m ới có th ể
sửa chữa được, và lượng giống hoa màu đã được người dân tận dụng đất
ở các bãi biền ven sông gieo trồng năng suất tương đối cao trong các mùa
vụ không có lũ lụt.
Bên cạnh dự án 135, năm 2007, ngân hàng Chính sách Xã h ội cho vay
vốn không lãi, bản Cáo đã mua 24 con bò để chăn nuôi đ ến đ ầu năm 2009
này tăng lên 32 con. Như vậy, với việc đầu tư này phù hợp với nguy ện
vọng nhân dân, khi được hỏi đến họ trả lời muốn có nhi ều trâu bò đ ể
chăn nuôi vì ở đây đồng cỏ nhiều, vả lại có trâu bò để có sức kéo, có phân
bón sẽ sản xuất được nhiều hơn.
Năm 2005, dự án giảm nghèo ADB hỗ trợ một bộ máy xay xát lúa
gạo nhưng không sử dụng được vì không có điện 3 pha, dự án trồng r ừng
10
- thí điểm nhìn chung cây trồng khá phát triển số lượng ít lại xa trung tâm
mua bán gỗ nên hiện nay đồng bào cũng không chủ trọng vào việc trồng
rừng mặc dù đất rừng rất nhiều.
Với các dự án đầu tư như vậy, theo bà Ph ạm Th ị Lâm thì ch ưa thành
công, vì trường học đã gần đổ, bà mong muốn phát triển giáo dục để nâng
cao nhận thức cho đồng bào, khai hoang ruộng đất để đồng bào có ru ộng
nước để cày cấy. Ngoài ra bà còn yêu cầu không cho người Kinh s ống
cùng đồng bào dân tộc vì theo bà như vậy rất khó quán lývà nh ững ng ười
Kinh thường lấn chiếm đất của đồng bào. Cũng vậy, một bà già Ph ạm
Thị Cảnh sinh 1934 cũng mong có ruộng nước cho con cháu cày cấy, bà
bảo là không muốn vào sống trong rừng mà chỉ muốn sống ở đây, bà nói
“nhà nước nói mà không giữ lời” vì trước đây cán bộ có hứa khai hoang
ruộng nhưng không đủ ngân sách nên không thực hiện được. Ông cán bộ
cắm bản Nguyễn Văn Tiên hy vọng đồng bào có ngôi trường học vững
chắc và khang trang để các em tới trường, làm nhà nội trú cho giáo viên,
và mong Đai sứ quán Australia bàn giao nhà cộng đồng cho đồng bào để cá
nơi hội họp.
Có thể nói, so với các bản khác thì bản Cáo đang là nơi có s ố lượng
các dự án đầu tư ít nhất và hiện nay nhiều vấn đề bức thi ết c ần quan tâm
như ngôi trường đang gần đổ và không đủ phòng học, các em học cấp 2
không có phương tiện đi lại, đồng bào không có ruộng đất để cày c ấy. Vì
vậy vấn đề đầu tiện và quan trọng nhất yêu cầu các cơ quan chính quyền,
các nhà hảo tâm phải chủ trọng đầu tư vào lĩnh vực giáo dục mà cụ th ể là
xây dựng trường cấp 1 đủ phòng, đủ lớp, trợ cấp phương tiện đi lại cho
các em học cấp hai, có như vậy mới nâng cao được trình độ dân trí cho
đồng bào, ngoài ra để nâng cao nhận thức cho đồng bào cần mở các lớp
bổ túc văn hóa cho những người lớn tuổi không biết chữ, và dạy đồng bào
cách mua bán để tránh những hiện tượng lừa đảo trong mua bán. Nếu có
thể thì giúp gia đình nào khá giả mở quán bán hàng cho đ ồng bào mình và
thu mua các sản phẩm như hoa quả hay các sản phẩm lấy từ rừng v ề.
Hơn thế nữa, vấn đề khai hoang ruộng nước để ổn định sản xuất và d ần
11
- tự túc lương thực tránh thói ỷ lại nhà nước là một vấn đề không kém
phần quan trọng. Lý do đến nay bản Cáo vẫn không có ru ộng cày là vì
ngân sách để khai hoang ruộng theo dự toán là quá lớn, trong khi đó xã
Lâm Hóa là một xã nghèo dân ít, đồng bào dân tộc khá đông nên ch ỉ chờ
các nhà hảo tâm đổ vốn vào mới có thể thực hiện được. Mặc dù không có
ruộng nước nhưng chúng ta cũng không thể khẳng định việc định canh
định cư ở đây là không thành công mà theo tôi đây là địa điểm hợp lý đối
với đồng bào sống trong xã Lâm Hóa, một xã vùng cao vùng sâu, vì rằng
địa điểm định cư ở đây gần núi phù hợp với tâm lý xem núi nh ư vòng tay
người mẹ của đồng bào, gần đường ô tô thuận tiện cho việc đi lại, các
gia đình phân bố bên hữu khe Núng, chưa được đầu tư nước sạch nhưng
gần nguồn nước tự nhiên thuận tiện cho việc sinh hoạt của đ ồng bào,
ngoài ra các bãi biền ven sông là vùng đất rộng lớn để đồng bào canh tác
hoa màu, nguồn lương thực chính của đồng bào. Không những thế, diện
tích đất vườn khá rộng và rất phù hợp cho việc trồng cây ăn quả và các
loại rau xanh. Như vậy, theo ý kiến chủ quan của tôi trong thời gian tới
nếu được đầu tư thì ngoài giáo dục, khai hoang còn ph ải m ở các l ơp huấn
luyện kỹ thuật trồng cây ăn quả nhưng phải bắt tay chỉ việc. Không cấp
gạo miến phí mà phải có điều kiện, ví dụ: khi cấp g ạo đ ồng th ời c ấp cây
ăn quả nếu cây sống thì có gạo và ngược lại, chỉ nên trồng thuần chủng
một loại cây để dễ tiêu thụ. Bên cạnh trồng cây ăn quả thì hỗ trợ chăn
nuôi đặc biệt là trâu bò vì ở đây đồng cỏ nhiều, lại ở vùng sâu vùng xa ít
xảy ra hiện tượng bệnh dịch lây lan.
Như vậy qua quá trình khảo sát ban đầu tôi đã nhìn nhận được nh ững
vấn đề như trên, sở dĩ các dự án đầu tư chưa thành công vì họ chưa thật
sự chủ trọng vào một vấn đề gì cụ thể. Theo tôi các dự án nên đ ầu t ư
những vấn đề thiết thực nhất để năng cao trình độ văn hóa cũng nh ư kinh
tế nhăm nâng cao cuộc sống cho đồng bào.
CA XEN
12
- Cà Xen là một bản thuộc xã Thanh Hóa, cách trụ sở xã 7km theo
đường Mòn đi vào. Phía Nam giáp bản Cáo của xã Lâm Hóa, phía Tây giáp
với khu rừng bạt ngàn kéo dài đến tận nước bạn Lào, phía Đông và Bắc
giáp các thôn khác trong xã. Trước năm 1993, đồng bào sống du canh du
cư ở bản Lòn, khe Vàng, khe Còng Còng… Ngày 10/3/1993 có quy ết đ ịnh
chuyển đến bản ngày nay và chỉ trong 2 năm bà con đã sống ổn đ ịnh ở
bản mới, bản Cà Xen 39 hộ 159 khẩu gồm 3 xóm gộp lại: xóm Bãi Cà,
Bạch Tài và Xóm Cà Xen, trong đó xóm Cà Xen cách đường Mòn về
hướng Tây 2 km còn hai xóm còn lại nằm gần đường Mòn. Sự phân bố
của 3 bản này không tập trung mà cách nhau 1-2 km, riêng xóm Bãi Cà
cách xóm Cà Xen, nơi đặt nhà cộng đồng khoảng 4km. Nhìn chung đ ường
giao thông thuận tiện nhưng địa hình phức tạp, h ầu h ết là đ ồi núi d ốc.
Xóm Bạch Tài cư trú hai bên đường Mòn Hồ Chí Minh không g ần khe
suối nên nguồn nước sinh hoạt và sản xuất rất phức tạp, hiện tại các h ộ
gia đình phải dùng nước giếng của các gia đình người Kinh lên lamf kinh
tế mới, xóm này có 6 hộ sống phía Đông đường Mòn và 2 h ộ sống phía
Tây đường Mòn cùng người Kinh. Xóm Bãi Cà cách đường Mòn 500m, ở
địa thế khá đẹp, đây là một khu đất rộng và bằng ph ẳng rất thuận ti ện
cho việc trồng rau và hoa màu, mặc dù không gần sông nh ưng đã có đ ược
các nhà đầu tư hỗ trợ bể nước sạch để sử dụng, ở xóm này cũng khá
nhiều người Kinh sinh sống. Trong ba xóm thì Cà Xen là xóm đông dân c ư
nhất, địa thế rất đẹp, nằm giữa lòng chảo, bốn bề là núi, c ư dân phân b ố
theo sườn núi thành một hình tròn ở giữa là 3,8h ruộng nước. Con đường
duy nhất thông ra đường Mòn khoảng 2km đã được Bộ giao thông Vận
tải Đào Đình Bình hỗ trợ nhựa hóa.
Cà Xen không nằm cạnh các con sông lớn, trong bản chỉ có các khe
nhỏ không tên là nguồn nược sinh hoạt chính của đồng bào. Không gi ống
các dân tộc thiểu số ở vùng cao Việt Bắc, để mang nước lên nhà hiện nay
người Mã Liềng ở bản Cà Xen đã dùng các thùng nhựa mua từ người
Kinh để gánh nước về dùng, ngoài nguồn nước sinh hoạt chính của đ ồng
13
- bào là nước khe thì đã có một số hộ gia đình đã dùng nguồn n ước s ạch t ừ
các bể nược hoặc các giếng được các dự án đầu tư, trong đó có hai gia
đình đã tự bắt nước tự chảy về phục vụ sinh hoạt hàng ngày.
Để phục vụ cho việc sản xuất đất là yếu tố quan trọng nh ất, ngu ồn
đất tự nhiên ở đây rất nhiều và mãu mỡ hơn so với các vùng khác, đất
không quá dốc phù hợp cho việc trồng cay ăn quả và cây hoa màu, diện
tích ruộng lúa cũng nhiều nhất so với các bản người Mã Liềng thuộc
huyện Tuyên Hóa, nguồn nước tưới tiêu lai dồi dào. Mặc dù v ậy, cũng
như các nhóm người khác trong dân tộc Chứt, th ời ti ết ở đây rất kh ắc
nghiệt, có hai mùa mưa, nắng mùa mưa kéo dài lại có giá rét nên các lo ại
cây trồng vật nuôi thường bị chết vào mùa mưa rét. Động thực vật trong
rừng trở nên quý hiếm do chính sách khai thác của ng ười Kinh các xã lâm
cận quá bừa bãi nên hiên nay đàn ông ở đay không còn lên rừng săn bắn
như xưa mà chỉ khai thác các sản phẩm phụ.
Cơ sở hạ tầng
Cà Xen là bản gần đường Mòn Hồ Chí Minh nên giao thông đi lại r ất
thuận lợi, các đường nôi bản cũng đã hoàn thành và đ ược đổ nh ựa nh ưng
phương tiên đi lại của người dân còn rất cực khổ, nhìn chung ch ẳng có gì
ngoại đôi chân trần, mọi vật đều nằm trên lưng trên vai c ủa h ọ. Tuy v ậy,
trong bản đã có 5 chiếc xe máy tập rung vào các gia đình làm ăn khá giả.
Theo chế độ định canh định cư, năm 1993, đồng bào người Mã Liềng
thuộc xã Thanh Hóa đã được tập trung về đây, trong thòi gian đầu là các
gôi nhà tạmtheo kiểu nhà sàn truyền thống nhưng hiện nay vói hệ thống
nhà kiên cố do Bộ Giao thông Vận tải Đào Đình Bình h ỗ trợ 38/39 h ộ gia
đình. Hệ thống nhà sàn hai gian, lợp ngói, thưng ván gỗ, cột trụ dưới sàn
bằng xi măng nhằm tăng tính bền vững cho ngôi nhà, sàn và vật dụng phía
trên đều bằng gỗ, bên trong ngôi nhà không ngăn phòng, do đời sống khó
khăn nên rong nhà không có tranh trí. Cả gia đình ngủ gian trong, không
còn không gian được quy định rõ ràng cho các thành viên trong gia đình
như cuộc sống trước đây, 39 gia đình nhưng chỉ còn 1 gia đình có bàn th ờ
Cumuych, có lẽ những phong tục truyền thống đang dần bị lãng quên,
14
- những gia đình khá giả thì gian ngoài đặt tivi, còn các gia đình còn lại thì
đặt một vài đồ dùng trong nhà, không gian ngôi nhà không được rộng rải
nên bếp chính đặt ở ngôi nhà tạm theo phong cách nhà sàn truy ền th ống
chứa đựng nhiều điều kiêng kỵ Các ngôi nhà phân bố trong các không gian
rộng rãi và thoáng mát, trên những dải đất tương đối bằng so với các bản
khác.
Bên cạnh hệ thống nhà ở thì một cơ sở hết sức quan trọng để h ội
họp, tăng tinh thần đoàn kết là nhà cộng đồng, một ngôi nhà bằng g ỗ 3
gian, lợp ngói, cột nhà đường kính khoảng 120cm, cao khoảng 6m, sàn
cách mặt đất 2m, diện tích khảng 50m2, hiên sàn chiều rộng khoảng
1,5m, bên trong ngoài phòng hội họp đặt loa máy còn có hai phòng khách
khá rộng gành cho khách và càn bộ từ xa đền có th ể ngủ qua đêm. K ỷ
thuật làm nhà rất tinh xảo, gỗ làm nhà thuộc loại g ỗ t ốt và quý hi ếm, các
vật liệu được bào nhẵn làm cho ngôi nhà rộng rải và thoáng mát h ơn. Đ ịa
thế nhà cộng đồng tuy không nằm ở vị trí trung tâm c ủa 3 xóm nh ưng
cũng là nơi thoáng mát và rất đẹp. Theo y kiến chủ quan của tôi, đây là
ngôi nhà cộng đồng đẹp và thoáng mát nhất trong tất cả các ngôi nhà cộng
đồng của đồng bào dân tộc ở miền Tây tỉnh Quảng Bình, m ột thành công
của dự án ICCO.
Không giống các dân tộc khác, người Mã Liềng một nhóm nhỏ trong
dân tọc Chứt không chủ trọng nhà ma cho người ch ết, trước kia khi có
người chết những người trong bản chôn không làm nhà mồ và bỏe b ản đi
không trở lại nữa. Nhưng ngày nay sống định canh định cư, các xóm đã có
nghĩa địa riêng, khi có người chết những người trong bản đưa đến nghĩa
địa chôn cất, có làm một nhà mồ nhưng rất đơn giản chỉ vài ngọn lá c ọ
lọp lên vừa đủ che quan tài, sau đó họ không còn cúng bái không mở cửa
mả, không nhớ đến người đã chết nữa. Thậm chí trong nhà không có nhà
bàn thờ ma, người chết là hết.
Hiện nay sản xuất gần nhà các loại hoa màu và ruộng nước nên
không còn các trại ở trên nương rẫy như ngày xưa, có chăng là cái trại
15
- gần nhà cho các sản phụ sinh nở, sau 5 ngày tắm rửa sạch s ẽ lên nhà
chính.
Để thực hiện chăn nuôi, đồng bào có làm chuồng trại nuôi gà, l ợn,
trâu, bò nhưng hết sức đơn giản và thô sơ nên đây cững là một trong
những nguyên nhân dẫn đên chân nuôi không phát triển.
Bên cạnh các loại cở sở hạ tầng trên thì phương tiện thông tin đ ại
chúng cũng là một vấn đề hết sức quan trọng, tất cả các gia đình đều đã
có điện dùng và cả bản được hỗ trợ 3 chiếc ti vi Samsung 21’, cá nhân
trong bản có 10 chiếc cùng loa máy, đầu DVD, nên vấn đề thông tin
không còn phải lo ngại, ngoài các phương tiện đó thì ít khi có chi ếu phim
màn ảnh rộng cho đồng bào xem. Trẻ em từ rất nhỏ đã ph ải ph ụ giúp
công việc gia đình chẳng có gì để chơi ngoài các con dế. Đi ều này d ễ
hiểu thôi, cơm ăn ngày hai bữa không đủ no lấy đâu ra các khu vui chơi.
Thực trạng nươc sinh hoạt, Nhà nước hỗ trợ 7 giếng đào nh ưng hi ện
nay chỉ sử dụng được 3 cái, còn các cái khác do nước cạn hoặc bị phèn,
lở, 2 bể nước ở xóm Bãi Cà luôn đầy đủ nước. Năm 2008, có hai hộ gia
đình tự bắt nước tự chảy: Hồ Viên và Cao Thông. Như vậy, hầu hết bà
con đang phải sử dụng nước khe suối để sinh hoạt hàng ngày.
Đời sống kinh tế
Trong thời gian khoảng gần 10 năm trở lại đây đồng bào không còn
làm nương rẫy nữa mà đã biết sản xuất lúa nước, hoa màu và m ột s ố
nghề phụ khác phục vụ cho cuộc sống hằng ngày. Trong đó thì sản xuất
lương thực và hoa màu là chính, diện tích ruộng lúa nước: 3,8 ha, tập
trung ở xóm Cà Xen, đất ngô 4,5ha, đất lạc: 3,75ha, đất đậu xanh:3,5ha
(2006). Năm 2009 này không trồng bắp vì không đủ điều kiện phân đạm
và thiếu kỹ thuật nên năng suất thâp, đồng bào chỉ sản xuất lúa nước và
lạc nhờ sự giúp đỡ giống lân đạm của nhà nước (chương trình 135), di ện
tích lúa nước:3,9ha, năng suất 32ta/ha; lạc:6,3 ha, năng suất 20ta/ha. Do
diện tích đất lúa không nhiều nên chỉ có 19/39 hộ có ruộng, còn đất s ản
xuất lạc tất cả các hộ đều có, có hộ cho năng suất cao như Hồ Viên và
Cao Thông thu hoạch một mùa lạc từ 10 triệu đến 13 tri ệu, năng su ất lúa
16
- chưa cao do đồng bào thiếu hiểu biết về kỷ thuật, ngoài ra đồng bào cũng
đã quen thói ỷ lại, trông chờ sự giúp đỡ của nhà nước, ngại sử dụng phân
xanh nên lười biếng sản xuất. Lịch sản xuất hoa màu cũng gi ống các b ản
khác vào tháng 12 gieo hạt, dầu tháng hai hoàn thành việc làm cỏ và đến
tháng 5 thì thu hoạch lạc ngô. Tháng 6 trỉa đậu và tháng 8 thu hoạch, sau
khi thu hoạch đậu là mùa mưa nên người dân chỉ lên rừng tìm kiếm các
sản phẩm phụ. Việc sản xuất lúa cũng thực hiện một năm hai v ụ nh ư
người Kinh nhưng do thời tiết khắc nghiệt nên vụ đông th ường mất mùa.
Diện tích đất rừng thì nhiều nhưng chưa có vốn đầu tư, một số cây gỗ
bạch đàn, tram được trồng thí điểm nhưng do số lượng ít lại xa c ơ s ở thu
mua nên không phát huy được thế mạnh của việc trồng rừng. Các loại cây
ăn quả cũng được trồng nhưng số lượng rất ít, đất ở đây rất tốt thu ận
tiện cho việc trồng nhiều cây ăn quả như cam bưởi, chuối, đu đ ủ, các
giống cây này được nhà nước cấp giống, người dân chỉ trồng ăn dội
không phát triển kinh tế hàng hóa, không có ch ợ. Các sản ph ẩm làm ra
được phải bán ở các chợ lưu động của người Kinh, bà con chưa có khái
niệm đến chợ bán hàng. Việc khai thác diện tích đất có sự giúp đỡ của
chương trình 134, 135 hỗ trợ máy phay đất. Bên cạnh nông nghiệp thì
chăn nuôi cũng khá phát triển, nhờ sự chịu khó làm ăn tích trứ đ ể mua trâu
bò chăn nuôi thì đồng bào còn được Ngân hàng Chính sách Xã h ội cho vây
vốn không lãi để mua trâu bò vừa chăn nuôi lấy phân bón lại có sức kéo
phục vụ sản xuất. Do chăm chỉ chịu khó nên có nhiều gia đình chăn nuôi
khá phát triển như gia đình Hồ Viên 15 con trâu, 3 con bò, Cao Thông 6
trâu, 4 bò, là vùng núi nên đồng cỏ nhiều thuận tiện cho vi ệc phát tri ển
đàn gia súc nhưng không phải không có khó khăn trên vùng cao giá rét về
mùa đông làm cho gia sức thường bị long móng lở miệng và b ị ch ết. Cùng
với trâu bò thì lợn gà cũng được một số gia đình nuôi nh ưng nhìn chung
không có hiệu quả mặc dù Nhà nước đã hỗ trợ cả giống lẫn th ức ăn.
Việc chăn nuôi không hiệu quả do nhiều nguyên nhân trong đó kỹ thuật
chăn nuôi là một vấn đề hết sức quan trọng.
17
- Về diện tích đất ở 1000m2/hộ nhưng do thói quen làm nhà li ền nhau
nên không thuận tiện để phát triển kinh tế vườn. Cuộc sống đang còn ỷ
lại nhiều vò nhà nước về mọi mặt, thậm chí người dân cũng quên luôn
nghề thủ công đơn giản để làm ra những vật dụng cần thiết trong nhà, họ
lấy nhưng sản phẩm làm ra đổi đồ dùng bằng nhựa, một số gia đình còn
đan lát được cũng chỉ phục vụ cho gia đình mình mà thôi.
Ngoài ra trong sản xuất kinh tế còn có một số ngành phụ như đi lấy
mây, mật ong, khai thác gỗ phụ là công việc của đàn ông, lấy lá nón hái
măng là công viêc của phụ nữ về bán cho các người Kinh. Ngày nay, vi ệc
khai thác rừng quá bừa bãi cùng với các hoạt động săn bắt tinh vi c ủa
người Kinh nên thú rừng trở nên khan hiếm, vì vậy đàn ông ng ười Mã
Liềng ở bản Cà Xen không còn vào rừng săn bắt như xưa mà ch ỉ vào rừng
khai thác các sản phẩm phụ và bắt cá, cua núi trên các khe suối ph ục vụ
cuộc sống
Đứng đầu bản có trưởng bản và có già làng nhưng quy ền l ợi c ủa h ọ
chỉ trên danh nghĩa, trong bản đã có một só hộ gia giàu có nh ư H ồ Viên và
Cao Thông, riêng mổi mùa lạc họ đã bán được mổi nhà trên 10 tri ệu đ ồng
nhưng ở bản chưa có sự phân biệt giàu nghèo, không có sự phân bi ệt giai
cấp. Những gia đình khá giả có thể đủ ăn trong năm nhưng số lượng này
chỉ đếm trên dầu ngón tay, còn lại hầu h ết các gia đình đ ều thi ếu ăn ph ải
phụ thuộc vào nguồn trợ cấp của nhà nước hàng tháng. Nguồn thu chinh
của họ là sản xuất nông nghiệp nhưng ruộng nước lại không đủ sản xuất
đây là mấu chốt của vấn đề nâng cao đời sống cho đồng bào.
Trình độ dân trí còn quá thấp, thể hệ người lớn hầu hết mù ch ữ, th ể
hệ 8x, 9x số học sinh chỉ đếm trên dầu ngón tay. Mổi xóm đ ều có nhà
mẫu giáo nhưng tổng cộng cả 3 xóm chỉ có 13 em, đã có trường c ấp 1 t ại
bản với 4 phòng học, 6 giáo viên đều là người Kinh. Học sinh c ấp 3: 1
em, cấp 2: 6 em, cấp 1: 29 em. Số lượng như vậy nhưng học sinh cấp 1
chưa bao giờ đến đầy đủ và tất cả học sinh đều có xu h ướng muốn bỏ
học do gia đình khó khăn, giáo viên thì không nhi ệt tình và tâm lý thích t ự
do tự tại không thích học đã ăn sâu vào tâm th ức của đ ồng bào làm cho h ọ
18
- không nhận thức được sự cần thiết phải biết chữ. Với học sinh cấp 2,
ngoài sự khó khăn của gia đình thì do trường cách bản 7km mà ph ương
tiện đị lại không có, vả lại những em học cấp 2 lại là lực l ượng lao đ ộng
chính trong gia đình.
Về y tế, mặc dù đã có y tế thôn bản nhưng thiếu thiết bị, thuốc mem,
khi có người đau ốm đồng bào đã biết đi bệnh viện để khám chữa. Xã,
huyện đoàn, tỉnh đoàn khám bệnh, phát thuốc định kỳ cho đồng bào nh ưng
do không biết chữ không nhớ lời thầy thuốc căn dặn nên họ không dám sử
dụng thuốc, vì vậy mà một số gia đình khi có người ốm vẫn th ực hi ện
việc cúng tế chữa bệnh vì bệnh viện thì xa mà phương tiện đi lại thì
không có. Ngoài cấp phát thuốc và khám bệnh thì 1 năm 3 l ần cán b ộ y t ế
đến bản phun thuốc diệt muỗi cho đồng bào.
Các dự án
Dự án làm nhà của Bộ Giao thông vận tải do Đào Đình Bình chủ trì
đầu tư với 38 ngôi nhà sàn kiên cố, mổi ngôi nhà trị giá 17 tri ệu đ ồng ti ền
trợ cấp còn gỗ do bàn con vào rừng mang về dưới sự cho phép của cán
bộ, cùng với con đường nhựa vào trung tâm bản.
Nhìn chung dự án này thục hiện đã thành công. H ệ th ống nhà sàn l ợp
ngói, thoáng mát, phù hợp với lối sống của đồng bào. Đồng bào không còn
có tư tưởng du canh du cư nũa mà muốn ổn định cuộc sống để làm ăn vì
họ đa được sự trợ giúp về lương thực hàng tháng và rất nhiều các phương
tiện khác từ nhà nước. Vị thế của bản đẹp gần nguồn nước, thuận tiện
giao thông đi lại, đất canh tác rộng lớn và màu mỡ lại gần rừng phù hợp
với lối sống truyền thống của đồng bào lại có điều kiện học h ỏi n ền s ản
xuất mới bằng lúa nước và kinh tế hàng hóa từ người Kinh. Họ đã biết
sản xuất lúa nước năm 2004, sản xuất lạc để bán, các sản phẩm lấy từ
rừng cũng thuận tiện trao đổi với người Kinh dưới xuôi lên.
Giao thông vận tải đã thuận tiên, con đường nhựa do Đào Đình Bình
đầu tư là con đường huyết mạch của đồng bào, nhờ con đường này mà
trao đổi hàng hóa được thực hiện tại bản, các em h ọc sinh đ ến tr ường
thường xuyên hơn, bà con trong bản đi lại thăm hỏi nhau dễ dàng và là
19
- con đường chính để đi đến các trụ sử chính của xã. Nhờ đó làm cho bản
Cà Xen ngày càng phát triển hơn.
Dự án ICCO đầu tư nhà cộng đồng, ngôi nhà 3 gian ở đ ịa th ế khá
đẹp, mặc dù so với 3 xóm thì nó không phải địa điểm trung tâm nhưng đây
là nguyện vọng của nhân dân. Mổi lần có lễ hội bà con đều quy t ụ tai nhà
cộng đồng để thắt chặt thêm tình đoàn kết, các cuộc hội họp hay vui ch ơi
vẫn được tổ chức thường xuyên tại nhà cộng đồng.
Dự án chương trình 135 đầu tư các giềng nước nhưng 7 cái gi ếng thì
có 4 cái không sử dụng được do thiếu nước vì khi chọn địa điểm làm
giếng không phù hợp và đào chưa đủ sâu, hai bể nước ở xóm Bãi Cà
thường xuyên có nước dùng. Mặc dù không thành công nhưng đã giúp
đồng bào có nước để dùng. Ngoài ra còn đầu tư các giống cây trồng trong
sản xuất hàng ngày như lúa, lạc, ngô, đậu, các giống rau, các loại cây ăn
quả, các loại phân bón đã giúp đồng bào sản xuất được l ương th ực đ ể
dùng. Cấp một máy phay đất sử dụng năm 2005 nhưng hiện tại bị h ư
hỏng một số bộ phận cần được sửa chữa mất khoảng gần 8 triệu đồng
mới có thể sử dụng lại được. cuối năm 2008, dự án đã đầu tư cho gia đình
có trâu bò 1 triệu đồng để làm chuồn trâu phục vụ chăn nuôi, nh ờ vậy các
hộ mới có chuồng trâu bò đảm bảo và chắc chắn hơn.
Dự án Suff, vận động đồng bào trồng keo nhưng do s ương mù và k ỷ
thuật trồng không đảm bảo, không chăm sóc nên keo bị chết hết. Đầu tư
nuôi thử 9 con lợn nhưng không có hiệu quả nên không đầu tư ti ếp có th ể
do chuồng trại không đảm đảm bảo, thiếu kỷ thuật chăn nuôi.
Dự án ADB đầu tư một bộ máy xay xát gồm: 1 mô tơ đi ện 3 pha,
một cối xay lúa Việt – Trung, một cối nghiền bột Việt – Trung từ năm
2005 nhưng đến nay vẫn chưa sử dụng được vì thiếu một s ố bộ phận
như: dây điện ba pha, cầu giao điện ba pha, đinh ốc, đà gỗ lấp máy, tất c ả
những thứ này theo dự toàn chi tiết khoảng 8,5 triệu đồng.
Thực trạng cuộc sống như vậy để nâng cao đời sống cho những
người dân trong bản đã có rất nhiều đề xuất và nguy ện vọng được đ ề ra,
tiêu biểu là:
20
nguon tai.lieu . vn