Xem mẫu
- Đọc hiểu bài thơ Lai Tân - Hồ Chí Minh
- 1. Cảnh tượng nhơ nhớp, bẩn thỉu ở chốn tù ngục(3 câu đầu)
Ba câu đầu, tác giả lần lượt kể về “công việc” của các nhà chức trách. Mỗi người một
việc và họ đều rất say mê với công việc của mình :
Ban trưởng nhà lao chuyên đánh bạc
Giải người, cảnh trưởng kiếm ăn quanh
Chong đèn, huyện trưởng làm công việc
Chuyện đánh bạc của đám quan lính cai ngục đã được Bác nói đến trong nhiều bài thơ
thuộc tập Nhật kí trong tù. Đánh bạc là việc chính của bọn cai ngục. Một điều rất phi lí là
chính quyền bắt những người đánh bạc ở ngoài cho vào tù. Còn những kẻ cai tù, đại diện
cho cái chính quyền coi đánh bạc là phạm pháp ấy lại ngang nhiên đánh bạc và hành
động ấy là “chuyên”. Còn bọn quan lính giải người thì ăn đút lót, hành hạ người tù để họ
phải nộp tiền cho chúng. Câu 1, giọng điệu khách quan thản nhiên. Đến câu 2, thái độ của
người kể đã bắt đầu bộc lộ, dù rất kín đáo, với việc sử dụng cụm từ kiếm ăn quanh.
“Kiếm ăn” chỉ hành động kiếm tiền một cách bẩn thỉu của những kẻ được coi là đại diện
cho luật pháp.
- Câu thứ ba, tác giả lại dùng lối nói châm biếm rất sâu cay, thâm thuý về việc làm của
“huyện trưởng”. Có vẻ như huyện trưởng rất lo lắng cho việc công. Nhưng đặt câu thơ
trong toàn bài, trong mối quan hệ với ba câu còn lại có thể hiểu ngay “làm công việc” của
huyện trưởng là gì. Chắc chắn không phải là hết lòng với việc riêng. Nếu vị huyện trưởng
say sưa với công việc như vậy thì không thể có chuyện “chuyên đánh bạc” và “kiếm ăn
quanh” ở trên. Và tác giả cũng không thể dùng cụm từ vẫn thái bình ở câu bốn. Vậy,
“chong đèn làm công việc” ở đây là say sưa bên bàn đèn thuốc phiện, bên chiếu bạc hay
những công việc không mấy sạch sẽ trong đêm.
2. Trời đất Lai Tân vẫn thái bình
Câu thơ cuối tạo nên kết cấu bất ngờ cho toàn bài thơ. Mâu thuẫn trào phúng, tính chất
châm biếm của bài thơ được tạo nên bởi mâu thuẫn này.
Trời đất Lai Tân vẫn thái bình.
Đây là kiểu thái bình giả tạo. Bộ máy chính quyền thối nát đến như thế thì làm sao có
được thái bình cho dân chúng. Những kẻ đại diện cho chính quyền, có trách nhiệm đảm
- bảo sự ổn định, thái bình cho xã hội lại là những kẻ nhũng nhiễu nhiều nhất.
Hồ Chí Minh đã dùng văn thơ như một thứ vũ khí chiến đấu vô cùng sắc bén và có hiệu
quả trong sự nghiệp cách mạng của mình. Và bút pháp trào phúng là bút pháp chủ lực tạo
nên sức mạnh chiến đấu trong sáng tác của Người. Lai Tân là một trong những bài thơ sử
dụng thành công bút pháp này. Bằng việc chọn phác hoạ hành động của mấy tên cầm
quyền trong chính quyền Tưởng, Người đã khái quát hoá bộ mặt thối nát của xã hội
Trung Quốc thời kì những năm bốn mươi của thế kỉ XX.
Bằng những thủ pháp nghệ thuật châm biếm, tài tình, bài thơ hướng tới mục đích đả kích
mạnh mẽ sự thối nát vô nhân đạo của chế độ nhà tù nói riêng và chế độ XH Trung Quốc
nói chung- thời Tưởng Giới Thạch
Bài thơ "Chiều tối" của Hồ Chí Minh
1: Giới thiệu tác giả, tác phẩm, luận đề
- Hồ Chí Minh là nhà cách mạng, lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam, đồng thời cũng là
nhà văn, nhà thơ lớn của dân tộc. Bên cạnh sự nghiệp cách mạng vĩ đại, Người cũng để
lại một sự nghiệp văn học đa dạng, phong phú.
Nhật ký trong tù là tập thơ viết bằng chữ Hán của Hồ Chí Minh trong thời kỳ Người bị
giam giữ ở nhà lao của bọn Tưởng Giới Thạch từ mùa thu 1942 đến mùa thu 1943. Tập
thơ chẳng những cung cấp cho ta những hiểu biết về chế độ lao tù khắc nghiệt của chính
quyền Tưởng Giới Thạch, mà quan trọng hơn còn giúp ta hiểu rõ vẻ đẹp tâm hồn của
chính bản thân người đã sáng tạo ra nó, nhà cách mạng, nhà thơ Hồ Chí Minh.
Có thể thấy rõ điều đó qua hai bài Chiều tố (Mộ) và Giải đi sớm (Tảo giải) trong tập thơ.
Cả hai bài thơ Bác đều viết trong gông cùm xiềng xích, trên đường chuyển lao đầy cực
nhọc, khổ ải.
Ý 2: Những biểu hiện cụ thể: Là nhật ký, tác phẩm còn là tập thơ trữ tình nên thiên về
việc bộc lộ thế giới bên trong, thế giới tâm hồn của người sáng tạo. Đó là lòng nhân ái
- bao la, là tình yêu cuộc sống sâu nặng, là tâm hồn của con người có sự tự do tinh thần
tuyệt đối, là cốt cách vững vàng...
a. Lòng nhân ái bao la, tình yêu cuộc sống sâu nặng
- Yêu thiên nhiên, tạo vật. Qua hai bài thơ, hình ảnh thiên nhiên luôn chiếm vị trí nổi bật.
Bác nâng niu từng biểu hiện của sự sống: “cánh chim”, “đám mây”... Có ai ngờ, thiên
nhiên lại hiện lên đẹp và sáng đến thế trong bài thơ Bác bị giải đi vào lúc nửa đêm.
- Quan tâm tới con người. Dù trong hoàn cảnh nào, Bác cũng không quên nghĩ tới con
người. Hình ảnh thiếu nữ xay ngô tối với Bác là vẻ đẹp của cuộc sống bình dị. Ngọn lửa
hồng reo vui trong bếp lửa gia đình, lòng Bác như cũng reo vui với nó (dẫn chứng).
b. Một tâm hồn tự do, không tù ngục, xích xiềng nào giam giữ nổi. Gặp cảnh bình minh
trên đường đi chuyển lao, lòng Bác tràn ngập niềm hân hoan (dẫn chứng).
c. Một tâm hồn có tinh thần “thép” vượt qua những đọa đày về thể xác, mọi thử thách
- khốc liệt về tinh thần.
- Qua hình ảnh “quyện điểu” và “cô vân”, ta bắt gặp thoáng buồn, thoáng cô đơn rất
người của Bác. Nhưng trước ngọn lửa hồng Bác quên đi việc mình chưa được dừng chân
trên con đường đày ải mà để lòng mình reo vui cùng ngọn lửa, để hình ảnh tỏa ấm trên
trang thơ, xua tan cái lạnh lẽo, cô đơn của lòng người và cảnh vật. Ngọn lửa hồng trở
thành vẻ đẹp tinh thần của nhà cách mạng.
- Giá rét căm căm từng đợt, quất ngược sự giá buốt vào mặt nhưng Bác không để cái khắc
nghiệt của thiên nhiên chế ngự mình. Câu thơ đọc lên nghe rắn rỏi lạ thường: “Chinh
nhân dĩ tại chinh đồ thượng - Nghênh diện thu phong trận trận hàn”.
d. Một tâm hồn lạc quan, tin tưởng
- Cả hai bài thơ kết thúc bằng hình ảnh ngọn lửa hồng và cảnh bình minh mang lại cảm
giác phấn chấn, lạc quan. Lời thơ ám dụ vời vợi lòng tin.
- e. Một hồn thơ phong phú
- Thi hứng đã đến với Người trong những giờ phút nặng nề, cực nhọc nhất của cuộc đời,
ngay cả trong lúc đối với người bình thường, cảm xúc thơ dễ bị triệt tiêu nhất hoặc không
cất lên nổi: “Người đi thi hứng bỗng thêm nồng”.
Cốt cách thi nhân ở Bác thể hiện ở niềm rung động trước cái đẹp, dù trong cảnh huống
nào.
- Niềm rung động ấy được thể hiện bằng những vần thơ vừa cổ kính, vừa hiện đại của
một tâm hồn nghệ sĩ mang cốt cách phương Đông. Hồn thơ Hồ Chí Minh bắt rễ rất sâu
vào truyền thống dân tộc, truyền thống phương Đông.
nguon tai.lieu . vn