Xem mẫu

MỞ ĐẦU Tại sao Điều 16 của Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách mạng Pháp lại nhấn mạnh rằng: "Một xã hội trong đó không bảo đảm việc sử dụng các quyền và không thực hiện sự phân quyền thì không có Hiến pháp"(1); hay tại sao Điều 13 của Tuyên ngôn về chủ quyền quốc gia của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Xô viết Liên bang Nga lại khẳng định: "Việc phân công các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp là nguyên tắc quan trọng nhất trong hoạt động của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Xô viết Liên bang Nga như là một nhà nước pháp quyền"(2) ? Để đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân ­ một nhiệm vụ đã được Đảng ta đề ra trong các Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, VIII, IX, và X, thì việc vận dụng những hạt nhân tư tưởng phân chia quyền lực nhà nước trong tổ chức và xây dựng bộ máy nhà nước Việt Nam theo hướng dân chủ, tiến bộ, khoa học và nhân đạo là điều tất yếu. Điều đó đã được thể hiện rõ trong Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng: “Nhà nước ta là công cụ chủ yếu để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, là Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp”. Tư tưởng phân chia quyền lực nhà nước với nhiệm vụ xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. 1 NỘI DUNG Về mặt khoa học, chủ nghĩa Mác coi phân quyền thực chất chỉ là sự phân công lao động bình thường trong nội bộ bộ máy nhà nước, với một số nhân viên làm công việc lập pháp, một số làm công việc hành pháp, và một số làm công việc tư pháp; sự chuyên trách ấy nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của nhà nước, cũng giống như sự phân công lao động nhằm nâng cao năng suất trong các nhà máy công nghiệp của chủ tư bản. Trong suốt một thời kỳ dài, các học giả của chủ nghĩa cộng sản đều gán tư tưởng phân quyền cũng như nguyên tắc phân quyền cho bộ máy nhà nước tư sản, mà phủ nhận việc áp dụng nó trong tổ chức bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa. Ở Việt Nam cũng đã có một thời kỳ như vậy. Do chịu ảnh hưởng mạnh mẽ từ Hiến pháp Liên bang xã hội chủ nghĩa Xô viết 1977, mà bản Hiến pháp năm 1980 của nước ta được xem là biểu hiện cao độ nhất của nguyên tắc tập quyền: chỉ có chức năng tư pháp là được tách ra tương đối độc lập, còn chức năng lập pháp và hành pháp thì gần như nhập lại làm một. Nhưng ngày nay quá trình hội nhập quốc tế, cũng như nhiệm vụ xây dựng Nhà nước ta theo hướng nhà nước pháp quyền đã đặt ra đòi hỏi phải xem xét những giá trị tiến bộ, tích cực của tư tưởng phân chia quyền lực, phải áp dụng những hạt nhân hợp lý của nó vào tổ chức bộ máy nhà nước, nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của Nhà nước. Bởi vậy, Điều 2 Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi năm 2001) ghi nhận: "Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan Nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp". 2 1. Sự vận dụng tư tưởng phân chia quyền lực vào việc tổ chức bộ máy Nhà nước theo hướng xây dựng nhà nước pháp quyền 1.1. Khái niệm nhà nước pháp quyền Những tư tưởng sơ khai đầu tiên về một nhà nước chịu sự ràng buộc bởi luật pháp do chính nó là người ban hành, một nhà nước vì nhân dân đã ra đời từ rất sớm trong lịch sử, nhưng thuật ngữ "nhà nước pháp quyền" lần đầu tiên được sử dụng là bởi hai nhà luật học người Đức là K.T Vancơ và R.F Môn vào năm 1813. Bản thân hai ông cho rằng nhà nước pháp quyền là nhà nước đảm bảo các nguyên tắc: tính tối cao của pháp luật; chủ quyền nhân dân thông qua cơ quan đại diện; mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật; mà mục tiêu quan trọng hơn hết cả của Nhà nước pháp quyền là "làm thế nào để tổ chức được đời sống nhân dân sao cho mỗi thành viên trong đó nhận được sự giúp đỡ và khuyến khích sự phát triển tự do tối đa và hoàn thiện năng lực tổng hợp của mình"(1). Nhà triết học cổ điển Đức Imanuel Kant (1724­1804) cho rằng: "ở nơi mà nhà nước hoạt động trên cơ sở quyền lập hiến và phù hợp với ý chí chung của nhân dân, ở đó nhà nước mang tính pháp quyền, ở đó không thể có sự hạn chế quyền của công dân trong lĩnh vực tự do cá nhân"(2). Từ đó có thể thấy mô hình nhà nước pháp quyền của Kant có những đặc điểm: tính tối cao của hiến pháp và pháp luật; chủ quyền nhân dân và sự tôn trọng, bảo vệ các quyền công dân và quyền con người. Theo ông, mối quan hệ giữa các cơ quan trong nhà nước pháp quyền với công dân được trực tiếp thể hiện thông qua sự phân quyền: với quyền lập pháp thuộc về nghị viện, quyền hành pháp thuộc về chính phủ và quyền tư pháp thuộc về toà án. Nhà nước pháp quyền, theo Kant, đó là một tổ chức pháp lý có sự phân quyền. 3 Nhận xét về tư tưởng nhà nước của Kant, Mác đã viết: "nó tuy không bao giờ thực hiện được nhưng việc thực hiện nó phải luôn luôn là mục tiêu của chúng ta và là đối tượng suy tưởng của chúng ta". Nếu như nhà nước theo quan điểm của Kant là nhà nước lý tưởng cần phải đạt đến, thì nhà nước pháp quyền theo quan điểm của V.F Heghen (1770­1831) đã được hiện thực hoá trong lý trí và thực tiễn cuộc sống hàng ngày của con người. Theo Heghen, nhà nước cũng là pháp luật, là pháp luật phong phú, sâu sắc và phát triển nhất, là toàn bộ hệ thống pháp luật. Nhà nước là một tổ chức hoàn thiện nhất của đời sống xã hội ­ một xã hội mà tất cả mọi thứ trong nó đều được xây dựng trên nền tảng là pháp luật, qua pháp luật mà thể hiện sự thống trị của tự do. Giá trị trong quan điểm của Heghen về nhà nước là ở chỗ nó hạn chế chức năng bạo lực, cưỡng chế mà đề cao tính định hướng, tính lý trí và lợi ích của nó đối với xã hội cũng như với mỗi công dân. Có thể nói Heghen đã sử dụng tư tưởng về nhà nước của mình để chống lại chủ nghĩa cực quyền lẫn chủ nghĩa vô chính phủ. Từ sau Cách mạng tháng Mười, nước Nga Xôviết ra đời, những tư tưởng về xây dựng nhà nước kiểu mới, nhà nước xã hội chủ nghĩa bắt đầu được hoàn thiện. Mà trong đó có một tư tưởng nổi bật, là tư tưởng về pháp chế xã hội chủ nghĩa. Nền pháp chế xã hội chủ nghĩa và mô hình nhà nước pháp quyền có nhiều điểm tương đồng, cụ thể là: cả hai đều đòi hỏi tính tối cao của luật, mọi công dân, tổ chức và cả nhà nước đều phải tôn trọng và thực hiện pháp luật; cả hai đều đòi hỏi sự hoàn thiện của hệ thống pháp luật, đều đòi hỏi phải kiên quyết đấu tranh chống mọi hành vi vi phạm pháp luật... và trên hết là cả hai đều đòi hỏi phải có một nền dân chủ thực sự và rộng khắp. 4 Trong công cuộc cải tổ nhà nước Liên Xô cũ đã hình thành nhiều tư tưởng, quan điểm mới về mối liên hệ giữa nhà nước và pháp luật "khá hoàn hảo. Đáng tiếc rằng, mô hình đó chưa kịp đưa vào cuộc sống thì chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô bị sụp đổ". Các nhà khoa học Xôviết đã đề cập đến cả hai khía cạnh cơ bản của nhà nước pháp quyền, đó là: ­ Về mặt hình thức, nhà nước pháp quyền là sự thống trị tối cao của pháp luật, nhà nước, các cơ quan nhà nước, nhân viên của bộ máy nhà nước, mọi cá nhân, tổ chức trong xã hội đều bị ràng buộc bởi pháp luật. ­ Về mặt bản chất, pháp luật do cơ quan lập pháp ban hành không phải một sản phẩm của sự tự do duy ý chí, không phải từ ý muốn của người làm luật, mà nó phải phản ánh thực tại khách quan của xã hội, nhằm đáp ứng các yêu cầu của tiến bộ xã hội. Tựu chung lại, các tư tưởng về nhà nước pháp quyền có các đặc điểm như sau: ­ Nhân dân là chủ thể của quyền lực nhà nước: Nhà nước pháp quyền về mặt lý thuyết, phải là một nhà nước mà nhân dân là chủ thể của quyền lực và nhà nước chỉ là tổ chức được ủy nhiệm quyền lực mà thôi. Khi nhà nước không thể đáp ứng được các nhu cầu của nhân dân thì nhân dân có quyền xóa bỏ nhà nước ấy đi mà thay bằng một nhà nước khác. Còn pháp luật pháp quyền, đó phải là ý chí chung của nhân dân, nhằm bảo vệ tự do và tài sản của mỗi cá nhân trong cộng đồng. Mỗi thành viên tuân thủ ý chí chung của cộng đồng tức là tuân thủ ý chí của chính mình, nghĩa là vẫn hoàn toàn tự do. 5 ... - tailieumienphi.vn
nguon tai.lieu . vn