Xem mẫu

  1. BÀI TIỂU LUẬN Trình bày các năng lực sư phạm và vai trò của chúng đối với người giáo viên kỹ thuật. 1
  2. Phần I : TÂM LÝ SƯ PHẠM Trình bày các năng lực sư phạm và vai trò của chúng đối với người giáo viên kỹ thuật. Bài làm Hoạt động của giáo viên biểu hiện ở tất cả các hình thức khác nhau của công tác sư phạm nhưng nhìn chung ở hai dạng đặc trưng: Công tác dạy học và công tác giáo dục. Tuy nhiên, sự phân chia này cũng chỉ là tương đối vì khi tiến hành công tác dạy học thì cũng đã đạt mục đích giáo dục. Ngược lại, muốn giáo dục thì cũng phải dựa trên cơ sở dạy học. Vả lại dạy học hay giáo dục thực chất cũng là tạo ra những cơ sở trọng yếu, cơ bản để “xây cất” nhân cách cho thế hệ trẻ. Hiện nay việc xem xét cấu trúc của năng lực sư phạm cũng có nhiều cách khác nhau. Chẳng hạn, có tác giả sắp xếp các năng lực sư phạm dựa vào các năng lực sư phạm giữ vai trò chủ đạo, nhóm các năng lực sư phạm giữ vai trò hỗ trợ, nhóm các năng lực sư phạm giữ vai trò điểm tựa. Cách phân chia trên có một mặt hợp lý và mặt chưa hợp lý. Cách phân chia này giúp ta thấy mức độ ý nghĩa và hiệu quả khác nhau của năng lực trong hoạt động sư phạm. Nhưng cách làm đó cũng bộc lộ một nhược điểm lớn là việc sắp xếp năng lực này hay năng lực kia vào nhóm năng lực giữ vai trò chủ đạo hau hỗ trợ hoặc điểm tựa thiếu cơ sở thuyết phục lớn. Còn một cách khác, tuy “chiết trung”, nhưng trong đó có hạt nhân hợp lý của nó. Đó là cách nêu ra một số các năng lực điển hình của hoạt động sư phạm. Gônôbôlin cho rằng, việc đưa ra những năng lực trong các năng lực sư phạm không phải xếp theo thứ tự quan trọng khác nhau. Trong số những năng lực đó, có những năng lực “đặc hiệu” cho hoạt động này ( chẳng hạn năng lực cảm hoá học sinh cần cho công tác giáo dục, hoặc năng lực truyền đạt tài liệu thì lại đặc trưng cho công tác dạy học), nhưng cũng có năng lực “đặc hiệu” cho cả hai hoạt động dạy học và giáo dục. Hơn nữa, trong số những năng lực đó, có năng lực được sử dụng hiệu quả ở những giáo viên khác nhau trong cùng một loại hoạt động do có những đặc điểm cá nhân khác nhau. Chẳng hạn, cả hai giáo viên đều thành công 2
  3. trong công tác dạy học và giáo dục nhưng người thì chủ yếu do truyền đạt tri thức, nhưng có người thì lại nhờ tài khéo léo đối xử sư phạm, cũng có người có tất cả các năng lực nhưng chỉ là một giáo viện trung bình, nếu ở họ không có những phẩm chất nhân cách chung. Những phẩm chất này, có thể không gọi là năng lực sư phạm được, (chẳng hạn niềm tin sâu sắc vào sức mạch của giáo dục, tính mục đích, tính nguyên tắc...) nhưng thiếu nó thì cũng không thể trở thành một giáo viên có tài. Cũng có tác giả dựa vào chức năng đặc trưng của người giáo viên là dạy học và giáo dục để xác định cấu trúc của năng lực sư phạm. Để thực hiện có hiệu quả các chức năng đặc trưng đó phải có một hệ thống các năng lực tương ứng, do đó tạo thành các nhóm năng lực tổ chức các hoạt động sư phạm. Tuy nhiên, cách chia này cũng có một nhược điểm khác là không hẳn một năng lực cụ thể nào đó là bộ phận cấu hình của nhóm năng lực này chứ không phải là của nhóm năng lực kia. Chẳng hạn, năng lực hiểu học sinh chẳng những cần có trong nhóm năng lực dạy học mà cả trong nhóm năng lực giáo dục cũng không thể thiếu sự có mặt của nó Yêu cầu đối với người giáo viên dạy nghề: - Phẩm chất: + Có giác ngộ xã hội chủ nghĩa, có lý tưởng nghề nghiệp, có lập trường của giai cấp công nhân. + Nắm vững quan điểm, đường lối giáo dục của đảng. + Có động cơ, thái độ đúng đắn đối với nghề, có đạo đức, lương tâm nghề nghiệp trong sáng. + Có bản lĩnh vững vàng và có nghệ thuật lao động sư phạm. - Về năng lực: + Có trình độ văn hoá cao, khoa học kỹ thuật và tay nhề giỏi. + Có năng lực hiểu học sinh, truyền dạt và tổ chức quá trình giáo dục. + Có hệ thống kỹ năng, kỹ xảo nghề nghiệp. Dù sao, xét về mặt thực tiễn, cách phân chia này giúp chúng ta thấy những năng lực cần thiết, cơ bản ứng với từng loại hoạt động đặc trưng của người giáo 3
  4. viện. Từ đó, trong đào tạo ở các trường sư phạm cũng như trong tự rèn luyện của giáo sinh, những hiểu biết trên sẽ là nhãng định hướng bổ ích. Sau đây, ta sẽ xét một số năng lực điển hình trong các năng lực sư phạm: Năng lực hiểu học sinh; năng lực tự học, tự bồi dưỡng; năng lực thiết kế bài giảng; năng lực dạy học; năng lực ngôn ngữ; năng lực lời nói; năng lực giao tiếp; năng lực kéo léo ứng xử sư phạm; năng lực tổ chức. Năng lực hiểu học sinh trong quá trình dạy học và giáo dục Dạy học là một quá trình thuận nghịch, thống nhất của hai loại hoạt động dạy và học do hai thực thể (thầy và trò) đảm nhiệm. Trong quá trình đó, chức năng của giáo viên là tổ chức và điều khiển hoạt động học sinh, chức năng của học sinh chiếm lĩnh nền văn hoá xã hội. Dạy học chỉ có hiệu quả cao khi quá trình đó thực sự là quá trình điều khiển được. Kết quả của sự điều khiển một phần tuỳ thuộc vào “tần số” trao đổi thông tin giữa người dạy và người học, nói cách khác, thầy càng hiểu trò, hiểu kịp thời bao nhiêu thì càng có căn cứ để tổ chức và điều khiển quá trình dạy học và giáo dục của mình bấy nhiêu. Vì vậy, năng lực hiểu học sinh trong quá trình dạy học và giáo dục được xem là chỉ số cơ bản của năng lực sư phạm. Đó là năng lực “thâm nhập” vào thế giới bên trong của trẻ, sự hiểu biết tường tận về nhân cách của chúng, cũng như năng lực quan sát tinh tế những biểu hiện tâm lý của học sinh trong quá trình dạy học và giáo dục. Một giáo viên có năng lực hiểu học sinh khi chuẩn bị bài giảng đã biết tính đến trình độ văn hoá, trình độ phát triển của chúng, hình dung được từng em cái gì cũng biết, biết đến đâu, cái gì có thể quên hoặc khó hiểu. Về vấn đề này, ở những giáo viên ít kinh nghiệm, vì không biết đánh giá đúng trình độ học sinh, nên đối với họ tài liệu nào cũng dường như đơn giản, dễ hiểu và không đòi hỏi một thủ thuật trình bày đặc biệt nào. Rõ ràng là đối với họ tất cả học sinh đều như nhau. Sự phân biệt của họ có chăng chỉ có hai loại: cố gắng hoặc lười biếng, học khá hoặc họ kém. Do đó, trong khi chế biến và trình bày tài liệu, họ đã hướng về mình chứ không phải hướng về học sinh. Trái lại, người giáo viên có kinh nghiệm, khi chế biến và trình bày tài liệu lại biết đặt mình vào địa vị người học. Do đó, họ đặc biệt 4
  5. suy nghĩ về đặc điểm của nội dung, xác định khối lượng, mức độ khó khăn và hình thức trình bày sao cho thuận lợi nhất đối với học sinh. Vì vậy biểu hiện trước hết của năng lực học sinh là ở chỗ, giáo viên biết xác định khối lượng kiến thức đã có và mức độ, phạm vi lĩnh hội của học sinnh và từ đó xác định mức độ và khối lượng kiến thức mới cần trình bày trong công tác dạy học hay giáo dục. Người giáo viên có năng lực hiểu học sinh, trong quá trình giảng dạy của mình, căn cức vào một loại dấu hiệu do quan sát tinh tế có thể xây dựng những biểu tượng chính xác về những lời giảng dạy của mình đã được những học sinh khác nhau lĩnh hội như thế nào? Nhiều quan sát tâm lý cho thấy rằng khả năng hiểu học sinh trong quá trình dạy học của người thầy giáo được thể hiện trên hai mức độ: ở mức độ thấp, giáo viên có thể nhận biết được học sinh hiểu bài mới ra sao bằng cách đề ra câu hỏi, ra bài tập và học sinh làm và trả lời, ở mức độ cao hơn, giao viên có năng lực, ngay trong quá trình dạy học, tự họ như đã nắm được phần nào diễn biến của sự lĩnh hội ở chúng và hầu như đã “đọc” được cái gì đã diễn ra và diễn ra như thế nào trong óc họ. Quan sát những giáo viên giảng giỏi ta thấy, họ theo dõi học sinh hiểu bài như thế nào không phải chỉ qua câu trả lời mà chính qua thắc mắc của học sinh hoặc căn cứ vào những dấu hiệu dường như không đáng kể (một sự ngập ngừng trong câu trả lời, một từ, một câu bị đập xoá trong bài làm, một ánh mắt, một nụ cười hay một tiếng xì xào của lớp...) mà có thể hiểu được những biến đổi nhỏ nhất trong tâm hồn học sinh, dự đoán được mức độ hiểu bài và có khi còn phát hiện được cả mức độ hiểu sai lệch của chúng. Người giáo viên có năng lực hiểu học sinh còn có thể hiện ở chỗ dự đoán được thuận lợi và khó khăn, xác định đúng đắn mức độ căng thẳng cần thiết khi thực hiện các nhiệm vụ nhận thức. Năng lực hiểu học sinh là kết quả của một quá trình lao động đầy trách nhiệm, thương yêu và sâu sát học sinh, nắm vững môn mình dạy, am hiểu đầy đủ về tâm lý học trẻ em, tâm lý học sư phạm cùng với một số phẩm chất tâm lý cần thiết như sự “tinh ý” sư phạm (quan sát), óc tưởng tượng, khả năng phân tích và tổng hợp... 5
  6. Tri thức và tầm hiểu biết của người giáo viên. Đây là một năng lực cơ bản của năng lực sư phạm, một trong những năng lực trụ cột của nghề dạy học, Vì sao vậy? Giáo viên có nhiệm vụ phát triển nhân cách học sinh nhờ một phương tiện đặc biệt là tri thức, quan điểm, kỹ năng, thái độ... mà loại người khám phá ra, nhất là tri thức khoa học thuộc lĩnh vực giảng dạy của mình. Giáo viên phải nắm vững nội dung, bản chất cũng như con đường mà loài người đã đi qua. Chỉ có trong điều kiện ấy, giáo viên mới có thể tổ chức cho học sinh tái tạo và lấy lại những cái cần cho sự phát triển tâm lý, nhân cách của học sinh, tạo ra những cơ sở trong yếu để hình thành phẩm chất và năng lực của con người mới. Do sự tiến bộ của kỹ thuật và sự phát triển nhanh của khoa học, một mặt xã hội đề ra những yêu cầu ngày càng cao đối với trình độ văn hoá chung của thế hệ trẻ, mặt khác cũng làm cho hứng thú và nguyện vọng của trẻ càng ngày càng phát triển (thích tìm hiểu, tò mò...) còn có một lý do nữa có thể đề cập tới là tri thức và tầm hiểu biết còn có tác dụng mạnh mẽ tạo ra uy tín của người giáo viên. Người giáo viên có tri thức và tầm hiểu biết rộng thể hiện ở chỗ: + Nắm vững và hiểu biết rộng mô hình mình phụ trách. + Thường xuyên theo dõi những xu hướng, những phát minh khoa học thuộc môn mình phụ trách, biết tiến hành nghiên cứu khoa học môn mình phụ trách, biết tiến hành nghiên cứu khoa học và có những hứng thú lớn lao đối với nó. + Có năng lực tự học, tự bồi dưỡng bổ túc và hoàn thiện tri thức của mình, đầy đủ ý thức tự nguyện làm “một thứ bọt biển” để thấm hút vào mình mọi tinh hoa của khoa học, của nền văn hoá nhân loại. Để có năng lực này (tri thức và tầm hiểu biết), không có gì hơn đòi hỏi ở người giáo viên phải có hai yếu tố cơ bản trong chính mình. Nhu cầu về sự mở rộng tri thức và tầm hiểu biết (nó là nguồn gốc của tính tích cực và động lực của việc tự học), những kỹ năng để làm thoả mãn nhu cầu đó (phương pháp dạy học). Một vĩ nhân nếu không thường xuyên tự bồi dưỡng thì cũng dần dần mất hết nhu cầu trí tuệ và hứng thú tinh thần và lúc đó còn gì là vĩ nhân, huống gì là người giáo viên. 6
  7. Năng lực thiết kế bài giảng Đó là năng lực gia công về mặt sư phạm của giáo viên đối với tài liệu học tập nhằm làm cho nó phù hợp tối đa với đặc điểm lứa tuổi, đặc điểm cá nhân học sinh, trình độ, kinh nghiệm của các em và đảm bảo logic sư phạm. Muốn làm được điều đó trước hết đòi hỏi người thầy giáo phải biết đánh giá đúng đắn tài liệu. Việc đánh giá đúng đắn tài liệu của giáo viên chính là xác lập được mối quan hệ giữa yêu cầu kiến thức của chương trình với trình độ nhận thức của học sinh. Người giáo viên có năng lực chính là người biết tính và xác lập được đúng đắn mối quan hệ nói trên, làm sao viừa đảm bảo được yêu cầu chung về kiến thức của chương trình , vừa là cho tài liệu đó vừa sức tiếp thu với học sinh. Trên cơ sở đánh giá đúng đắn tài liệu, người giáo viên phải biết chế biến, gia công tài liệu nhằm làm cho nó vừa đảm bảo logic của sự phát triển khoa học, vừa phù hợp với logic sư phạm, lại thích hợp với trình độ nhận thức của học sinh. Trong cơ chế dạy học trên quan điểm hoạt động, người giáo viên không phải làm việc vận chuyển tài liệu từ sách giáo khoa đến học sinh, mà chủ yếu tổ chức cho học sinh giành lại được tri thức khoa học đã được gửi gắm trong sách giáo khoa, truyền được sức sống của kiến thức, làm cho kiến thức đó có ý nghĩa sâu sắc đối với cuộc sống của họ. Vì vậy, người giáo viên ngoài việc nắm được logic phát triển của tri thức, hiểu thấu đáo, chính xác tài liệu, còn phải biết chế biến, nhào nặn, biết bổ xung tài liệu đó bằng những điều lấy từ sách vở, những điều quan sát và thu thập từ cuộc sống. Muốn làm được điều đó, trước hết người giáo viên phải có khả năng phân tích tổ hợp, hệ thống hoá kiến thức. Khi trình bày một tài liệu (nhất là tài liệu mới, khó, phức tạp, có nhiều mối tương quan), người giáo viên phải phân tích để thấy cái gì là bản chất, là cơ bản, mối quan hệ giữa chúng với những cái chi tiết, cái thứ yếu như thế nào, cũng như suy nghĩ cách trình bày, dắt dẫn để làm cho chúng trở nên nổi bật, trở thành đối tượng tiếp thu của học sinh. Người giáo viên phải có óc sáng tạo. Truyền đạt kiến thức cho người khác hiểu được không phải là vấn đề đơn giản. Không phải là mọi cái gì mình hiểu thì sẽ nói ra cho người khác cũng hiểu đúng và đầy đủ như mình. Do đó, việc xây dựng 7
  8. lại cấu trúc tài liệu cho phù hợp với đặc điểm đối tượng là một quá trình lao động sáng tạo. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa làm cho tài liệu trở nên đơn giản, thô thiển, hạ thấp trình độ học sinh. Óc sáng tạo của người thầy giáo khi chế biến tài liệu thể hiện ở chõ: - Trình bày tai liệu theo suy nghĩ và lập luận của mình, cung cấp cho học sinh những kiến thức tinh tế và chính xác, kiến thức bộ môn này với kiến thức bộ môn khác, liên hệ vận dụng và thực tiễn cuộc sống. - Tìm ra nhưng phương pháp mới, hiệu nghiệm để làm cho bài giảng đầy sức lôi cuốn và giàu cảm xúc tích cực. - Nhạy cảm với cái mới và giàu cảm hứng sáng tạo cũng là yếu tố góp phần thúc đẩy năng lực chế biến tài liệu ở người giáo viên. Năng lực dạy học Kết quả lĩnh hội tri thức, chiếm lĩnh đối tượng học tập phụ thuộc vào ba yếu tố: Trình độ nhận thức của học sinh, nội dung của bài giảng, cách dạy của giáo viên. Vì vậy, giáo viên phải biết cách dạy và nâng cao trình độ cách dạy lên mức độ năng lực. Nghề nào cũng có kỹ thuật hành nghề của mình. Nghề dạy cũng có kỹ thuật riêng của nó. Hoạt động dạy và hoạt động học thống nhất với nhau trong cùng một quá trình và không hoạt động nào thay thế cho hoạt động nào. Hoạt động của giáo viên không có mục đích riêng cho mình mà nhằm mục đích tạo ra hoạt động nhận thức tích cực của học sinh. Quan niệm này dẫn tới một kỹ thuật dạy học hoàn toàn khác với kỹ thuật “rót tri thức” (Giáo viên: giảng, học sinh: ghi). Đặc điểm nổi bật của kỹ thuật dạy học mới là thầy tổ chức và điều khiển hoạt động của học sinh nhằm lĩnh hội tri thức. Việc tổ chức và điều khiển hoạt động của trò nhằm lĩnh hội tri thức. Việc tổ chức này dựa trên cơ sở nắm vững con đường mà loài người đã đi trong khi phát hiện tri thức đó. Vì chỉ có cách đó, học sinh mới thực sự nắm được logic nội tại của khái niệm, nắm được chân lý khoa học. Vậy nắm vững kỹ thuật dạy học là nắm vững kỹ thuật tổ chức và điều khiển hoạt động nhận thức của trò qua bài giảng, và đạt đến mức như là năng lực. Nắm vững kỹ thuật dạy học được biểu hiện ở chỗ: 8
  9. Nắm vững kỹ thuật dạy mới, tạo cho học sinh ở vị trí “Người phát minh” trong quá trình dạy học. Truyền đạt tài liệu rõ ràng, dễ hiểu và làm cho nó trở nên vừa sức với học sinh. Gây hứng thú và kích thích học sinh suy nghĩ tích cực và độc lập. Tạo ra tâm thế có lợi cho sự lĩnh hội, học tập (như động viên, khêu gợi được sự chú ý, chuyển hoá kịp thời từ trạng thái làm việc sang trạng thái nghỉ, giảm căng thẳng trong giây lát và ngược lại, khắc phục sự suy giảm của hoạt động trong giờ giảng hoặc thái độ thờ ơ, uể oải). Việc hình thành một năng lực như vậy, nắm vững được kỹ thuật dạy học nêu trên quả không dễ dàng, trái lại, nó là kết quả của một quá trình học tập nghiêm túc (cả lý luận cơ bản và lý luận nghiệp vụ) và rèn luyện tay nghề công phu. Năng lực ngôn ngữ Có thể nói không có năng lực dạy học nếu không có năng lực ngôn ngữ. Trong dạy học, cũng như giáo dục, ngôn ngữ của giáo viên thường hướng vào việc giải quyết một nhiệm vụ nhất định nào đó như: truyền thụ kiến thức mới, kiểm tra kiến thức cũ, thuyết phục học sinh tin vào một chân lý, một lẽ phải nào đó hoặc có khi qua lời nói biểu thị một sự đồng tình hay phản đối điều gì. Vậy năng lực ngôn ngữ là năng lực biểu đạt rõ ràng và mạch lạc ý nghĩ và tình cảm của mình bằng lời nói cũng như nét mặt và điệu bộ. Nó là một trong những năng lực quan trọng của người giáo viên. Nó là công cụ sống còn đảm bảo cho người giáo viên thực hiện chức năng dạy học và giáo dục của mình. Sở dĩ như vậy là vì: bằng ngôn ngữ, truyền đạt thông tin từ giáo viên đến học sinh, bằng ngôn ngữ thúc đẩy sự chú ý và sự suy nghĩ của học sinh vào bài giảng, băng ngôn ngữ điều khiển và điểu chỉnh hoạt động nhận thức của học sinh. Năng lực ngôn ngữ của người giáo viên thường được biểu hiện cả ở nội dung và hình thức của nó, vì thế yêu cầu về ngôn ngữ của thầy giáo là phải sâu sắc về nội dung, giản dị về hình thức. Về nội dung: 9
  10. - Từ mỗi đơn vị biểu hiện đến toàn bài giảng, ngôn ngữ phải chứa đựng mật độ thông tin lớn, diễn tả trình bày phải chính xác, cô đọng và “đắt”. Những điều nói trên là kết quả của sự uyên thâm về hiểu biết, của sự suy nghĩ sâu sắc. - Lời nói phải phản ánh được tính kế tục và tính luận chứng để đảm bảo thông tin liên tục, logic. - Nội dung và hình thức ngôn ngữ phải thích hợp với các nhiệm vụ nhận thức khác nhau (thông báo tài liệu mới, bình luận câu trả lời của học sinh, biểu lộ một sự tán đồng hay bất bình). - Nhân cách của người giáo viên là hậu thuẫn vững chắc và duy nhất cho lời nó của mình. Dù là thông báo, bình luận, tán thưởng hay trách móc..., ngôn ngữ của người giáo viên bao giờ cũng được cân nặng bởi sức mạnh bên trong của họ. Vì thế, sức mạnh, sự lôi cuốn, lực hấp dẫn, tính điều khiển và điều chỉnh của lời nói người giáo viên là tuỳ thuộc một phần lớn vào nhân cách, vào uy tín của chính họ. Về hình thức: - Hình thức ngôn ngữ của giáo viên có năng lực thường giản di, sinh động, giàu hình ảnh, có ngữ điệu, sáng sủa, biểu cảm với cách phát âm mạch lạc trong đó không có những sai phạm về mặt tư từ học, về ngữ pháp, về ngữ âm. Người giáo viên cần suy nghĩ để lựa chọn hình thức trình bày sao cho dễ hiểu, có chiều sâu về tư tưởng, có sức lay động được tâm hồn học sinh. - Năng lực ngôn ngữ của thầy giáo còn biểu hiện ở chỗ thúc đẩy một cách tối đa sự chú ý và sự suy nghĩ của học sinh vào bài giảng. Giáo viên nên tránh những câu dài, cấu trúc từ phức tạp, những thuật ngữ và cách trình bày khó hiểu. Ngược lại, giáo viên cân nhắc những lời nói quá ngắn ngủi, quá vắn tắt thường làm cho học sinh qua khó hiểu. - Nhịp độ ngôn ngữ của giáo viên cũng có một ý nghĩa nhất định. Nếu ngôn ngữ của giáo viên đều đều, đơn điệu sẽ gây mệt mỏi rất nhanh chóng, làm cho người nghe chán chường uể oải và thờ ơ. Nhịp độ quá gấp cũng gây khó khăn trong việc lĩnh hội, chóng gây mệt mỏi, ức chế bảo vệ phát sinh nhanh. Ngược lại, nhịp độ quá chậm cũng gây uể oải và tẻ nhạt. 10
  11. Năng lực giao tiếp sư phạm Giáo tiếp là một thành phần cơ bản của hoạt động sư phạm. Những hình thức chủ yếu của công tác giáo dục và học tập diễn ra trong điều kiện giao tiếp như: giảng bài, phụ đạo, thi cử, công tác cá biệt, lao động, vui chơi... Không có giao tiếp thì hoạt động của giáo viên và học sinh không thể diễn ra. Vì vậy, người giáo viên cũng phải có năng lực giao tiếp sư phạm. Đó là năng lực nhận thức nhanh chóng những biểu hiện bên ngoài và những diễn biến tâm lý bên trong của học sinh và bản thân, đồng thời biết sử dụng hợp lý các phương tiện ngôn ngữ và phi ngôn ngữ, biết cách tổ chức, điều chỉnh quá trình giao tiếp nhằm đạt mục đích giáo dục. Năng lực giao tiếp sư phạm thường được biểu hiện ở các kỹ năng chính như: - Kỹ năng định hướng giao tiếp. - Kỹ năng định vị. + Kỹ năng làm chủ trạng thái cảm xúc của bản thân. + Kỹ năng sử dụng phương tiện giao tiếp. Ngoài ngôn ngữ diễn đạt, những phương tiện ngoài ngôn ngữ như cử chỉ, điệu bô, nét mặt, nụ cười, ánh mắt... có thể bổ sung, hỗ trợ cho thái độ của người thầy giáo trong quan hệ tiếp xúc học sinh. Năng lực giao tiếp sư phạm không chỉ thể hiện trong việc tiếp xúc giữa giáo viên và học sinh trong mọi mặt của hoạt động sư phạm. Thông qua sự giao tiếp này, giáo viên đóng góp công sức của mình vào việc gắn giáo dục nhà trường với giáo dục gia đình và xã hội, làm cho giáo dục cuộc sống cùng chiều với giáo dục nhà trường tạo nên sức mạnh tổng hợp trong sự nghiệp đào tạo thế hệ trẻ. Việc rèn luyện năng lực giao tiếp không tách rời với việc rèn luyện các phẩm chất nhân cách. Chỉ có những giáo viên nào có nhiệt tình, tôn trọng nhân cách học sinh, thiện chí, quan tâm giúp đỡ học sinh, luôn lắng nghe và dân chủ trong giao tiếp với họ thì thường dễ dàng thiết lập quan hệ tốt với học sinh, dễ đạt kết quả cao trong hoạt động sư phạm của mình. Năng lực cảm hoá học sinh 11
  12. Muốn hiểu được đối tượng giáo dục của mình, muốn các tác động sư phạm của mình có ý nghĩa đến sự hình thành nhân cách của trẻ, trong hệ thống các năng lực sư phạm không thể vắng mặt năng lực “cảm hoá” học sinh. Đó là năng lực gây được ảnh hưởng trực tiếp của mình đến với học sinh về mặt tình cảm và ý chí. Nói một cách khác, đó là khả năng làm cho học sinh nghe, tin và làm theo mình bằng tình cảm, bằng niềm tin. Năng lực “cảm hoá” học sinh phụ thuộc vào một tổ hợp các phẩm chất nhân cách người thầy giáo như tinh thần trách nhiệm đối với công việc, niềm tin vào sự nghiệp chính nghĩa cũng như kỹ năng truyền đạt niềm tin đó, lòng tôn trọng học sinh cũng như sự chu đáo và khéo léo đối xử của giáo viên, lòng vị tha và các phẩm chất ý chí. Ý kiến của nhiều học sinh được phỏng vấn cho biết rằng họ rất tôn trọng những giáo viên biết yêu cầu cao đối với họ, nhưng không bao giờ tỏ ra cưỡng bức và đe doạ thô bỉ, cũng như tỏ ra thông thái không cần thiết. Cùng với ý kiến trên, nhiều học sinh cũng nhất trí, không tán thành tính nhu nhược, sự khoan dung vô nguyên tắc, sự cả tin một cách ngây thơ, sự uể oải, sự thiếu kiên quyết của người giáo viên. Để có năng lực, đòi hỏi người giáo viên phấn đấu và tu dưỡng để có một nếp sống văn hoá cao, một phong cách mẫu mực nhằm tạo ra một uy tín chân chính và thực sự, biểu hiện từ cử chỉ, lời nói đến tinh thần lao động hăng say, sáng tạo, ý tưởng nghề nghiệp cao đẹp. Xây dựng mối quan hệ giáo viên với học sinh tốt đẹp: Vừa nghiêm túc, vừa thân mật, có thái độ yêu thương và tin tưởng học sinh, biết phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh... Có tư thế tác phong gương mẫu trước học sinh: ăn nói lịch sự, nhã nhặn, tôn trọng, giọng điệu đàng hoàng. Sức hút của cảm hoá hoàn toàn bắt nguồn và hiện thân từ chính bộ mặt chính trị đạo đức và tài nghệ sư phạm của giáo viên. Năng lực khéo léo ứng xử sư phạm Trong quá trình giáo dục, người giáo viên thường đứng trước nhiều tình huống sư phạm khác nhau. Điều đó, một bộ mặt đòi hỏi người giáo viên phải hiểu 12
  13. biết tâm lý học sinh, hiểu được những điều đang diễn ra trong tâm hồn các em; mặt khác phải đòi hỏi người giáo viên phải biết giải quyết linh hoạt và sáng tạo những tình huống sư phạm của từng ca nhân cũng như tập thể học sinh. Muốn ứng xử tốt, rõ ràng cần có tài ứng xử sư phạm. Cái chủ yếu trong sự khéo léo đối xử sư phạm là kỹ năng tìm ra những phương thức tác động đến học sinh một cách hiệu quả nhất, là sự cân nhắc đúng đắn những nhiệm vụ sư phạm cụ thể phù hợp với những đặc điểm và khả năng của cá nhân cũng như tập thể học sinh trong tứng tình huống sư phạm cụ thể. Sự khéo léo đối xử sư phạm là kỹ năng trong bất cứ trường hợp nào cũng tìm ra được những tác động sư phạm đúng đắn nhất như là một nghệ thuật. Vì thế, sự khéo léo đối xử sư phạm được xem như một thành phần quan trọng của “tài nghệ sư phạm”. I.V.Strakhop cũng đã phân tích các yếu tố tâm lý của sự khéo léo đối xử sư phạm. Theo ông đó là: - Sự thống nhất giữa tình thương yêu có lý lẽ của giáo viên đối với học sinh và những hình thức đối xử hoàn thiện về mặt sư phạm. - Sự thống nhất giữa sự tôn trọng nhân cách học sinh và tính yêu cầu cao có cơ sở về mặt sư phạm. - Sự thống nhất giữa niềm tin và sự kiểm tra sư phạm. - Sự cân bằng giữa ý chí khi giao tiếp kết hợp với tính giản dị, tự nhiên, chân thật và có thiện chí của những hình thức đối xử. Trong thực tiễn hoạt động sư phạm của người giáo viên, sự khéo léo đối xử sư phạm được biểu hiện dưới nhiều khía cạch khác nhau: - Sự nhạy bén về mức độ sử dụng bất kỳ mọi tác động sư phạm nào (khuyến kích, trách phạt hay ra lệnh... những tác động này quá lời hay quá mức có thể dẫn đến “phản sư phạm”). - Nhanh chóng xác định được vấn đề xảy ra và kịp thời áp dụng những biện pháp thích hợp. - Biết phát hiện kịp thời và giải quyết khéo léo những vấn đề xảy ra bất ngờ, không nóng vội, không thô bạo. 13
  14. - Biết biến cái bị động thành cái chủ động, giải quyết một cách mau lẹ các vấn đề phức tạp trong công tác dạy học và giáo dục. Người giáo viên khéo léo đối xử sư phạm thường quan tâm chu đáo đến trẻ, chúng ta thấy việc không khéo ứng xử thường dẫn đến những hậu quả nặng nề. Tài ứng xử sư phạm không gì khác hơn là một bộ phận của nghệ thuật sư phạm. Cho nên, cơ sở hình thành nên nó cũng là do lương tâm nghề nghiệp, niềm tin yêu và lòng tôn trọng người mà mình dạy dỗ, tinh thông nghề nghiệp. Năng lực tổ chức hoạt động sư phạm Người giáo viên vừa là tổ chức lao động cá nhân và tập thể học sinh trong những điều kiện sư phạm khác nhau, vừa là hạt nhân để gắn học sinh thành một tập thể, vừa là người tuyên truyền và liên kết, phối hợp các lực lượng giáo dục. Vì thế, năng lực tổ chức hoạt động sư phạm là tất yếu cần có trong năng lực của người giáo viên. - Năng lực tổ chức hoạt động sư phạm của người giáo viên được thể hiện, ở chỗ tổ chức và cổ vũ học sinh thực hiện các nhiệm vụ khác nhau của công tác dạy học và giáo dục nên trên lớp cũng như ngoài trường, trong nội khoá cũng như ngoại khoá, cho từng học sinh cũng như cho tập thể của chúng. - Năng lực tổ chức hoạt động sư phạm còn thể hiện ở chỗ biết đoàn kết học sinh thành một tập thể thống nhất, lành mạnh có kỉ luật, có nề nếp đảm bảo cho mọi hoạt động của lớp diễn ra một cách thuận lợi, biến tập thể học sinh thành “giáo viên thường trực”. - Người giáo viên có năng lực tổ chức hoạt động sư phạm không những biết tổ chức và đoàn kết học sinh, mà còn biết tổ chức và vận động nhân dân, cha mẹ học sinh và các tổ chức xã hội tham gia vào sự nghiệp giáo dục theo một mục tiêu xác định. Để có được các năng lực trên, đòi hỏi người giáo viên: + Biết vạch kế hoạch: Người giáo viên biết vạch kế hoạch thường suy nghĩ một cách chín chắn, sâu sắc các tình huống giáo dục và đặc điểm đối tượng nên kế hoạch vạch ra biết kết hợp yêu cầu trước mắt và lâu dài, đảm bảo tính nguyên tắc 14
  15. và tính linh hoạt của kế hoạch, biết vạch ra kế hoạch đi đôi với kiểm tra để đánh giá kết quả và sẵn sàng bổ sung kế hoạch. + Biết sử dụng đúng đắn các hình thức và phương pháp dạy học và giáo dục khác nhau nhằm tổ chức tốt việc học tập và có tác đống sâu sắc đến tư tưởng và tình cảm của học sinh. + Biết định mức độ và giới hạn của từng biện pháp dạy và giáo dục khác nhau. + Có nghị lực và dũng cảm tin vào sự đúng đắn của kế hoạch và các biện pháp giáo dục. Chúng ta đã phân tích cấu trúc nhân cách người thầy giáo, trong đó có hai phần lớn: các phẩm chất và năng lực.Bằng tổ chức này, bằng nhân cách này, người giáo viên tiến hành nghề nghiệp. Nhân cách sẽ giúp cho người giáo viên thực hiện chức năng cao cả của mình. “Những nấp thang” của tuổi trẻ hôm nay và mai sau, và chính trong thực tiễn hoạt động sáng tạo của người “kỹ sư tâm hồn” những thành phần đó trong cấu trúc nhân cách người thầy giáo viện lại càng ngày phát triển. Nhân cách là bộ mặt chính trị - đạo đức của người giáo viên, là công cụ chủ yếu để tạo ra sản phẩm giáo dục. Nó là cấu tao tâm lý phức tạp và phong phú. Sự hình thành và phát triển nhân cách là cả một quá trình tu dưỡng văn hoá và rèn luyện tay nghề trong thực tiễn sư phạm. Nhân cách hoàn thiện và có sức sáng tạo sẽ tạo uy tín chân chính của người giáo viên. Trường sư phạm có nhiệm vụ xây dựng nên những cơ sở trọng yếu để hình thành nhân cách người giáo viên tương lai. Thời gian học tập và tu dưỡng của giáo sinh ở trường sư phạm là cực kỳ quan trọng để tạo ra những tiền đề cần thiết tạo nhân cách. 15
  16. Phần II: TÂM LÝ HỌC NGHỀ NGHIỆP Trình bày mối liên hệ giữa các thành phần của tam giác hướng nghiệp từ đó liên hệ với công tác hướng nghiệp tại địa phương mình sinh sống. Bài làm Trước hết trong mối liên hệ của tam giác hướng nghiệp nghề cho học sinh đó là công tác tư vấn nghề nghiệp. Như vậy công tác tư vấn nghề là gì? Đó chính là những biện pháp tâm lý, giáo dục để phát hiện và đánh giá phẩm chất năng lực của người đang được hướng dẫn lựa chọn nghề nghiệp. Ta phải hiểu rằng hoạt động tư vấn gồm nhiều yếu tố gộp lại cụ thể là: Thu thập thông tin, xử lý thông tin, phát hiện các vấn đề liên quan và đề xuất các biện pháp xử lý. Cụ thể các thông tin đó được lấy từ đâu, do tổ chức nào cung cấp, thông tin đó liệu có lợi cho người học hay không? Hoạt động tư vấn nghề nghiệp là các hoạt động thu thập, xử lý thông tin, vận dụng kiến thức chuyên môn, phát hiện vấn đề, đề xuất giải pháp, phương án, lập dự án giám sát, đánh giá, do các tổ chức chuyên môn, cá nhân thực hiện độc lập, khách quan theo yêu cầu của người sử dụng tư vấn. Hoạt động tư vấn phải tuân thủ các nguyên tắc nhất định như quy định liên quan của pháp luật, đạo đức nghề nghiệp, trung thực, khách quan Giáo dục nghề Các nghề và yêu Thị trường lao động cầu của nghề Tư vấn nghề Cá nhân và năng Tuyển chọn lực cá nhân nghề Đây là sơ đồ trình bày, giải quyết những cơ sở chủ yếu để hướng nghiệp. Trước hết chúng ta phải hiểu được khái niệm về hoạt động tư vấn nghề nghiệp. Công tác hướng nghiệp là quá trình hướng nghề nghiệp  đạt đến kỹ năng, kỹ xảo trong nghề nghiệp. Các nghề và yêu cầu nghề: là những tri thức và yêu cầu của nghề nghiệp. 16
  17. Cá nhân và năng lực cá nhân: là nhân cách của người đang được hướng dẫn chọn nghề. Thị trường lao động: là tri thức về thị trường lao động, nhu cầu của xã hội đối với các loại chuyên gia khác nhau và những vấn đề về kinh tế học, xã hội học. Tư vấn nghề nghiệp: Là một hoạt động tư vấn, dựa vào những biện pháp tâm lý, giáo dục và y học nhằm đánh giá toàn diện năng lực thể chất và trí tuệ của đối tượng, trên cơ sở yêu cầu của một nghề cụ thể, có tính đến nhu cầu của thị trường lao động, để đưa ra lời khuyên về chọn nghề phù hợp cho đối tượng được tư vấn. Trong qua trình tư vấn nghề nghiệp, người cán bộ tư vấn cần phải nắm được vai trò và nhiệm vụ của mình. + Vai trò của người cán bộ tư vấn: - Cung cấp đầy đủ thông tin cho người cần tư vấn để tìm được nghề phù hợp với khả năng của họ. - Giúp các cơ sở đào tạo nghề khai thác các khoá đào tạo và các môn học phù hợp với nhu cầu của người học và thị trường lao động. - Thiết lập mối qua hệ giữa người học - cơ sở dạy nghề và thị trường lao động + Nhiệm vụ của cán bộ tư vấn: - Hướng dẫn lựa chọn nghề nghiệp, phối hợp với các hoạt động hướng nghiệp của các trường THCS; THPT. - Cung cấp các thông tin về cơ hội việc làm tại các địa phương, vùng miền và quốc gia. - Giới thiệu người học đến cơ sở đào tạo nghề phù hợp với khả năng của họ. Trong quá trình tư vấn nghề nghiệp có 2 điều cần phải ghi nhớ đó là: Thông tin về cá nhân ( người cần tư vấn) và thông tin về nghề nghiệp (cơ sở đào tạo nghề và thị trường lao động. Giáo dục nghề nghiệp: Phải tuyên truyền, mô tả nghề để lôi cuốn sự chú ý của người cần tư vấn nghề và nghề xã hội đang cần. Ví dụ: Tên nghề - Kiểu quan hệ của nghề (người với người; người với thiết bị máy móc...) - Nhiệm vụ của nghề 17
  18. - Đối tượng lao động - Công cụ lao động - Hình thức tổ chức lao động - Điều kiện lao động - Rủi ro nghề nghiệp - Điều kiện tuyển chọn - Nơi có thể hành nghề và khả năng thăng tiến - Cơ sở đào tạo nghề. Như vậy người cần được tư vấn nghề sẽ có đầy đủ thông tin nghề nghiệp để có thể lựa chon ngành nghề mà họ đã được tư vấn phù hợp với khả năng của bản thân họ. Tuyển chọn nghề: Bố trí học sinh vào học cá nghề khác nhau căn cứ vào chỉ tiêu của giám định lao động. Là một trường có đặc thù riêng về đào tạo nghề (đào tạo theo chỉ tiêu của ngành), hiện nay tại trường chúng tôi cũng đã tiếp nhận và bố trí học sinh từ các vùng miền học tập theo bốn nghề cơ bản của nhà trường đó là: Thiết bị hình ảnh y tế; Điện tử y tế; Xét nghiệm y tế và Cơ điện y tế. Trường chúng tôi cũng đã phối hợp với các đơn vị có nhu cầu đào tạo kỹ thuật viên về thiết bị y tế để tuyên truyền, thông báo ngành nghề đào tạo cụ thể cho người học hiểu được nhiệm vụ của các ngành nghề theo học phù hợp với khả năng của bản thân và cơ quan sử dụng nhân lực. Bên cạnh đó từ đầu năm học nhà trường cũng đã làm công tác hướng nghiệp, tư vấn nghề nghiệp cho một số học sinh không phải là trong ngành cũng hiểu được phần nào về trang thiết bị trong ngành y tế và có thể lựa chọn ngành học. Tóm lại, công tác hướng nghiệp và tư vấn nghề nghiệp cho học sinh là một công việc không thể thiếu được trong quá trình đào tạo nghề. Việc tư vấn nghề nghiệp cho học sinh có ảnh hưởng rất lớn đến tương lai của học sinh sau này. 18
nguon tai.lieu . vn