Xem mẫu
- Cuộc đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh là một
cuộc đời trong sáng cao đẹp của một
người cộng sản vĩ đại, một anh hùng
dân tộc kiệt xuất, một chiến sĩ quốc tế
lỗi lạc đã đấu tranh không mệt mỏi và
hiến dâng cả cuộc đời mình vì Tổ quốc, vì
nhân dân, vì lý tưởng cộng sản chủ nghĩa, vì
độc lập, vì tự do của các dân tộc, vì hòa
bình và công lý trên toàn thế giới.
Bác Hồ sinh ngày 19-5-1890, tại
quê mẹ ở làng Hoàng Trù, quê cha là làng
Sen (nay thuộc xã Kim Liên, huyện Nam
Đàn), tỉnh Nghệ An. Cha là ông Nguyễn
Sinh Sắc (1862-1929), mẹ là bà Hoàng Thị Loan (1868-1901). Gia đình có 4 anh ch ị em. Ch ị gái
là bà Nguyễn Thị Thanh hay còn có tên là Nguyễn Th ị Bạch Liên (1884-1954). Anh trai là
Nguyễn Sinh Khiêm hay Nguyễn Tất Đạt (1888-1950) và e trai là Nguyễn Sinh Xin.
Làng Hoàng Trù Làng Sen
- Lớn lên trong bối cảnh đất nước bị
đô hộ, sớm tiếp thu tinh thần yêu nước của
các bậc tiền bối, Nguyễn Tất Thành đã
muốn tìm ra con đường để giải phóng dân
tộc. Năm 1905, khi phòng trào Đông du bắt
đầu hoạt động sôi nổi, “ cụ Phan Bội Châu
muốn đưa anh sang Nhật nhưng anh không
đi”. Trải qua thời gian học ở trường Pháp-
Việt Đông Ba từ 1905-1907, Nguyễn Tất
Thành đã bước đầu tiếp thu một số giá trị
văn minh của Pháp. Khi trả lời phỏng vấn
nhà báo Xô Viết Ôxíp Manđêxtan đăng trên tạp chí Ogoniok s ố 39 ngày 23 tháng 12 năm 1923,
Bác đã nói: “ khi tôi độ 13 tuổi, lần đầu tiên tôi được nghe 3 ch ữ Pháp: T ự do, Bình đ ẳng, Bác
ái. Đối với tôi người da trắng nào cũng là người Pháp, người Pháp đã nói th ế. T ừ thu ở ấy, tôi
rất muốn làm quen với nền văn minh Pháp, tôi muốn tìm xem nh ững gì ẩn sau nh ững ch ữ ấy.
Nhưng trong trường học của người bản xứ, bọn Pháp dạy người như dạy con vẹt. Chúng gi ấu
không cho người nước tôi xem sách báo. Không phải sách báo của nhà văn m ới, mà c ả Rút-xô,
Mông-téx-kiơ cũng bị cấm. Vậy thì phải làm thế nào bây gi ờ? Tôi quyết đ ịnh tìm cách đi ra
nước ngoài”. “Tôi muốn đi ra nước ngoài, xem n ước Pháp và các n ước khác. Sau khi xem h ọ
như thế nào tôi sẽ trở về giúp đồng bào ta”. Như vậy, Bác muốn sang Pháp vì Pháp là n ước cai
trị Việt Nam, muốn đánh Pháp thì phải hiểu Pháp. Giáo s ư Nguy ễn Khánh Toàn kh ẳng đ ịnh: “
Điều mà Chủ tịch Hồ Chí Minh sớm nhận thức được nó và d ẫn ng ười đi đúng h ướng là:
nguồn gốc những đau khổ và áp bức dân tộc ở ngay tại “chính quốc”, ở n ước đ ế qu ốc đang
muốn thống trị dân tộc mình”. Nguyễn Tất Thành đã quyết đ ịnh ra đi xu ất phát t ừ lòng yêu
nước nồng nàn.
Ngày 3-6-1911, Nguyễn Tất Thành được nhận vào
làm phụ bếp trên tàu L’Admiral Latouche Tréville với tên gọi
là Văn Ba. Ngày 5-6-1911, tại bến cảng Nhà Rồng, tàu
L’Admiral Latouche Tréville rời bến, đánh dấu bước ngo ặt
quan trọng trong cuộc đời hoạt động cách mạng của Nguyễn
Tất Thành và phong trào giải phóng dân tộc của đất n ước.
Khi đến Pháp năm 1911, Bác đã kiếm sống bằng nghề làm
vườn. Ấn tượng đầu tiên của Bác ở đây là “cũng có những
người Pháp tốt” và “những người Pháp ở Pháp t ốt, lễ phép
hơn người Pháp ở Đông Dương”. Ở đây, người cũng chứng
kiến cuộc sống cơ cực, khốn khổ của người dân lao động
Pháp. Và người hiểu rằng chỉ có bọn tư bản Pháp mới độc
ác, xấu xa còn nhân dân lao động Pháp là bạn c ủa các dân tộc trong đó có Vi ệt Nam. Ng ười đã
nói với một người bạn: “Tại sao người Pháp không “khai hóa” đ ồng bào c ủa h ọc tr ước khi
“khai hóa” chúng ta”. Từ tháng 7 đến tháng 12-1911 Người đã theo con tàu đ ến nhi ều đ ịa
phương trên đất Pháp.
- Năm 1912, Nguyễn Tất Thành đã theo tàu L’Admiral
Latouche Tréville chở hàng hóa vòng quanh châu Phi và đã dừng
lại tại một số nước như Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Algérie,
Tunisie, Xênêga, Ghinê, Đa-hô-mây, Rêuyniông, qua mũi đen ở
Công-gô, từ Địa Trung Hải qua Biển Đỏ bằng kênh đào Xuy-ê,
đến Ấn Độ Dương rồi Đại Tây Dương. Bác Hồ nhận thấy ở
đâu người dân thuộc địa cũng sống trong cảnh khốn cùng,
chẳng khác gì đồng bào mình. Cuộc hành trình qua các thuộc địa
ở Châu Phi đã năng cao nhận thức, tình cảm của Văn Ba. Không
phải ngẫu nhiên mà nảy sinh ở Người ý thức về đoàn kết quốc
tế giữa các dân tộc thuộc địa, ý thức ấy lớn dần thành quan
niệm vững chắc về sự đoàn kết dân tộc bị áp bức thể hiện
trong tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp và việc thành lập
tổ chức Hội liên hiệp thuộc địa sau này.
Cuối năm 1922, Nguyễn Tất Thành đến Mỹ vừa làm thuê ki ếm s ống v ừa h ọc t ập,
Người có điều kiện để tận mắt chứng kiến sự khó khăn, nghèo khổ của người da đen, những
hoạt động chống tội ác của Đảng 3K và tìm hi ểu về cuộc cách m ạng M ỹ th ế k ỷ XVIII, tìm
hiểu tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ năm 1776. Đối chiếu với thực tế cuộc sống nghèo kh ổ
của người da đen. Bác Hồ đã đến thăm tượng Nữ thần Tự do ở New York, tr ước th ực t ế mà
Người đã nhận thấy trong xã hội Mỹ, Bác đã ghi lại cảm tưởng của mình dưới chân t ượng:
“Ánh sáng trên đầu thần Tự do tỏa rộng khắp trời xanh, còn dưới chân thần Tự do thì người da
đen đang bị chà đạp. Bao giờ người da đen được bình đẳng với người da tr ắng? Bao gi ờ có s ự
bình đẳng giữa các dân tộc? Bao giờ người phụ nữ được bình đẳng với nam giới?”.
Cuối năm 1923, Nguyễn Tất Thành rời Mỹ sang
Anh, lúc bấy giờ tại đây đang có cuộc đấu tranh yêu
nước của người Ireland gây được tiếng vang lớn và thu
hút sự chú ý của Bác. Ở Luân Đôn, Bác vẫn lấy tên là
Văn Ba, đi làm kiếm sống và cũng tìm hiểu đời sống
nhân dân tại đây, phong trào đấu tranh của nhân dân
thuộc địa và nhân dân lao động Anh. Nguyễn Tất Thành
đã tiếp xúc với tổ chức chính trị “Hội những người lao
động Trung Quốc ở hải ngoại”, tham gia hoạt động
của công đoàn Hải ngoại, cùng Công đoàn Anh bi ểu
tình đòi tự do và đình công. Đó là tiền đề cho những
hoạt động của Bác với tư cách là một chiến sĩ Quốc tế trên đất Pháp.
Từ năm 1917- 1923, Nguyễn Tất Thành sống và hoạt động tại Paris, b ằng ngh ề r ửa
ảnh, phóng ảnh, sơn vẽ đồ giả cổ Trung Quốc. Ngoài ra người còn tham gia viết bài cho báo
L’Humanité, La Vie Quvrière. Cùng khoảng thời gian này, Hội nh ững người Vi ệtNam yêu n ước
- ra đời, Nguyễn Tất Thành đã tham gia và trở thành nòng c ốt của phong trào Vi ệt ki ều yêu
nước tại Pháp. Ngày 18-6-1919, thay mặt Hội những người An Nam yêu n ước, Nguyễn Ái
Quốc gửi đến hội nghị Versailles bản ‘‘Yêu sách c ủa nhân dân An Nam’’ nh ằm t ố cáo chính
sách thực dân của Pháp đòi chính phủ Pháp thực hi ện quyền tự do, dân ch ủ và bình đ ẳng cho
dân tộc Việt Nam đã gây được tiếng vang lớn. Người Pháp coi hành đ ộng c ủa Bác là ‘m ột qu ả
bom chính trị’ nổ giữa Paris và lần đầu tiên nhân dân Pháp thấy ra có vấn đề tại Vi ệt Nam, còn
nhân dân Việt Nam thì cho đó là phát pháo hiệu giục giã đấu tranh.
“ …Lệ Bác Hồ rơi trên chữ Lênin,
Bốn bức tường im nghe Bác lật từng trang sách
gấp
Tưởng bên ngoài đất nước đợi mong tin,
Bác reo lên một mình như nói cùng dân tộc.
Cơm áo là đây, hạnh phúc đây rồi… ”
Tháng 7-1920, Bác Hồ đọc được bản “Sơ
thảo lần thứ nhất những luận cương về các vấn
đề dân tộc và thuộc địa” của V.I.Lênin đăng trên
báo L’Humanité, số ra ngày 16, 17-7-1920. Luận
cương đã nêu ra và giải đáp những vấn đề lớn của thời
đại đó là những vấn đề cấp thiết và toàn diện không
chỉ là sự đoàn kết chung của nhân dân thuộc địa và
chính quốc mà còn vạch ra chiến lược cho cuộc đấu
tranh giành quyền tự quyết dân tộc, đặc biệt là việc
phát huy sức mạnh liên minh công nông trong cuộc đấu
tranh chống địa chủ phong kiến nhằm thực hiện cuộc cách mạng ruộng đất. Tháng 12-1920,
Nguyễn Ái Quốc tham dự đại hội lần thứ 18 Đảng Xã h ội Pháp và b ỏ phi ếu tán thành Đ ảng
gia nhập Quốc tế thứ III, Quốc tế Cộng sản.
- Sau khi tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp (1921),
Người tiếp tục sống và hoạt động ở Pháp, tham gia sinh ho ạt
trong câu lạc bộ Faubourg. Được sự đồng tình và ủng hộ của
Quốc tế cộng sản, người đã tích cực vận động thành lập Hội
liên hiệp thuộc địa. Tháng 4 năm 1922 hội ra báo Le Paria nhằm
đoàn kết, tổ chức, hướng dẫn phong trào đấu tranh gi ải phóng
dân tộc các nước thuộc địa. Nhằm tuyên truyền về chính sách
khai thác thuộc địa của mình, năm 1922, thực dân Pháp đưa vua
bù nhìn “Khải Định” sang dự hội chợ tại Marseille. Nhân d ịp
này, Nguyễn Ái Quốc đã viết vở kịch “Con rồng tre” nhằm vạch
mặt bộ mặt bán nước của vua quan phong kiến, phản động làm
tay sai cho Pháp.
Ngày 13-6-1923, sau khi thoát khỏi sự theo dõi gắt gao của m ật thám Pháp, Nguy ễn Ái
Quốc bí mật rời Paris đi Liên Xô, đó cũng là n ỗi lo s ợ c ủa th ực dân Pháp đ ối v ới nh ững ng ười
yêu nước đang hướng về Xô Viết, nơi mà dân tộc bị áp bức trong chê độ Nga Hoàng được gi ải
phóng. Ngày 10-10-1923, Bác dự hội nghị lần thứ nhất của Quốc tế nông dân, v ới t ư cách là
đại biểu chính thức của nông dân Đông Dương. Ngày 17-10-1923, Bác đ ược bầu vào Đoàn
Chủ tịch của Hội đồng, gồm 11 ủy viên. Với sự ki ện này Bác đ ược xác đ ịnh là m ột chi ến sĩ
quốc tế xuất sắc. Ngày 21-1-1924, nghe tin Lênin qua đời, với s ự xúc đ ộng m ạnh m ẽ và lòng
biết ơn vô hạn, Người đã viết bài “Lênin và các dân tộc thuộc địa”. Tại đại h ội V c ủa Qu ốc t ế
Cộng sản, Bác đã chứng tỏ sự trưởng thành về nhân thức chính tr ị, s ự v ững vàng trong l ập
trường, quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, đặc biệt là vấn đề dân tộc và thu ộc đ ịa. ngày 15-
7-1924, Nguyễn Ái Quốc tham dự Đại hội Quốc tế thanh niên cộng sản lần IV.
Tháng 11-1924, Nguyễn Ái Quốc về Quảng Châu chọn một số
thanh niên Việt Nam yêu nước đang sinh sống tại Quảng Châu, tr ực
tiếp mở lớp huấn luyện đào tạo cán bộ Việt Nam. Các bài gi ảng c ủa
Người được tập hợp in thành cuốn “Đường kách mệnh” một văn kiện
lý luận quan trọng là cơ sở tư tưởng cho đường lối cách mạng Vi ệt
Nam. Năm 1925, Bác sáng lập ra Việt Nam thanh niên cách mạng
đồng chí hội. một tờ báo bí mật dùng làm cơ quan tranh đấu cho t ổ
chức là tờ Thanh niên do đích thân Bác chủ trì xuất bản. sau m ột thời
gian chuẩn bị, ngày 9-7-1925, hội liên hiệp các dân tộc bị áp b ức do Nguyễn Ái Qu ốc và các
đồng chí Trung Quốc tổ chức chính thức được thành lập, tôn chỉ c ủa h ội là “liên l ạc v ới các
dân tộc đó và cùng làm cách mạng lật đổ đế quốc”. Tháng 11-
1927, Nguyễn Ái Quốc được cử đi Pháp công tác và từ Pháp
Người đi dự cuộc họp của đại hội đồng của “Liên đoàn ch ống
đế quốc” được tổ tại Brussels.
Từ tháng 7-1928 đến tháng 11-1929, Người hoạt động
trong phong trào vận Đảng việt kiều yêu nước tại Thái Lan,
tiếp tục chuẩn bị cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam.
- Từ ngày 3 đến ngày 7-2-1930, tại Hương Cảng,
Trung Quốc, dưới sự chủ tọa của Người, các tổ chức
đảng tại Việt Nam thống nhất thành để thành lập một
đảng duy nhất lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam,
thông qua các văn kiên chính thức của Đảng. Đầu năm
1930, sau khi đi một số nước Châu Á, Nguyễn Ái Quốc
trở về Hồng Kông. Tại đây, người lấy tên gọi là Tống
Văn Sơ. Sáng sớm ngày 6-6-1931, Nguyễn Ái Quốc bị
cảnh sát Hồng Kông bắt tại số nhà 168 phố Tam Lung.
Sau gần 2 năm bị bắt giam với sự giúp đỡ nhiệt tình của
luật sư Francis Henry Loseby , ngày 28-12-1932, Nguyễn Ái
Quốc được chính quyền Hông Kông trả tự do. Mùa xuân
năm 1934, chiếc tàu buôn Liên Xô cập cảng Thượng Hải,
Nguyễn Ái Quốc được đưa lên tàu trong vai một hành khách
người châu Á. Sau hơn vài tháng lênh đênh trên biển người đ ến
được Mátxcơva. Từ năm 1934 đến 1938, Người nghiên cứu tại Vi ện Nghiên c ứu các v ấn đ ề
dân tộc thuộc địa tại Mátxcơva. Kiên trì con đường đã xác định cho cách m ạng Vi ệt Nam, ti ếp
tục theo dõi và chỉ đạo các phong trào cách mạng trong n ước. Đ ại h ội Qu ốc t ế C ộng s ản l ần
VII được tổ chức tại Mátxcơva từ ngày 25-7 đến ngày 25-8-1935, Nguyễn Ái Qu ốc lúc đó
đang hoạt động tại Liên Xô và lấy tên là Lin. Khi đ ại h ội di ễn ra Ng ười cũng đ ến tham d ự v ới
tư cách là đại biểu tham vấn, Người tích cực tham gia th ảo lu ận các chuyên đ ề ở các ti ểu ban,
đóng góp nhiều ý kiến cho đại hội. đồng thời, Người cũng đem h ết tinh th ần trách nhi ệm giúp
cho đoàn đại biểu Việt Nam hoàn thành tốt nhiệm vụ tại đại hội. sau m ột th ời gian ho ạt đ ộng
và công tác tại Liên Xô, tháng 10-1938 Bác tr ở lại Trung Qu ốc. trong th ời gian ở đây Bác đã
tham gia trong tổ chức Giải phóng quân lấy bí danh là Hồ Quang. Đầu năm 1941, Bác đã t ổ
chức lớp huấn luyện chính trị cho 43 cán bộ cách mạng Việt Nam.
Ngày 28-1-1941, sau 30 năm bôn ba tìm đường cứu nước, từ bến cảng Nhà R ồng ra đi,
lần lượt qua hơn nửa vòng trái đất, phải chịu bao gian nan, t ừ những năm tháng s ống trong
ngục tù của đế quốc Anh tại Hương Cảng,…. Chỗ ở của Người sau khi về n ước là hang C ốc
Bó, làng Pác Bó, lấy bí danh là Già Thu. Tại đây, Bác m ở l ớp hu ấn luy ện cho cán b ộ, in báo….
Cuộc sống vất vả, gian khổ nhưng người vẫn giữ được tinh thần lạc quan c ủa người chi ến sĩ
cộng sản:
“Sáng ra bờ suối, tối vào hang
Cháo bẹ, rau măng vẫn sẵn sàng.
Bàn đá chông chênh, dịch sử đảng,
Cuộc đời cách mạng thật sang”
Tháng 5-1941, với tư cách là đại diện Quốc tế Cộng sản, Bác đã ch ủ trì h ội ngh ị l ần
thứ VIII của Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương, quyết định đường lối c ứu n ước trong
thời kì mới, thành lập Việt Nam độc lập đồng minh (Vi ệt Minh). T ổ ch ức l ực l ượng vũ trang
giải phóng, xây dựng căn cứ địa cách mạng.
Ngày 13-8-1942, Nguyễn Ái Quốc lấy tên mới là Hồ Chí Minh đi Trung Qu ốc v ới danh
nghĩa là đại biểu của Việt Nam độc lập đồng minh. Tuy nhiên sau h ơn n ửa tháng băng r ừng,
lội suối đến Trung Quốc thì ngày 27-8-1942, Người bị Quốc dân đảng bắt giam vì nghi ngờ là
gián điệp. Đến ngày 10-9-1943, Người được thả tự do, trong gần 13 tháng ở tù Nguy ễn Ái
Quốc trải qua gần 30 nhà tù của 13 huyện của tỉnh Quảng Tây. Người đã vi ết t ập th ơ “Ng ục
trung nhật kí”.
Cuối tháng 8 đầu tháng 9-1944, sau khi vượ t qua khó khăn từ phía Quốc dân đ ảng
Người trở về Pác Bó, Cao Bằng. đây là chuyến tr ở v ề n ước lần 2 c ủa ng ười. Nh ững ngày
hoạt động trên đất Trung Quốc, Bác đã đạt được những thắng lợi v ề ngo ại giao. Tháng 12-
1944, Người chỉ thị thành lập đội Việt Nam tuyên truyền gi ải phóng quân ti ền thân c ủa Quân
đội nhân dân Việt Nam.
- Cuộc chiến tranh thế giới thứ 2 bước vào giai đoạn cuối với những thắng l ợi c ủa Liên
Xô và các nước đồng minh. Tháng 5 năm 1945, Hồ Chí Minh r ời Cao B ằng v ề Tân Trào. T ại
đây theo đề nghị của Người, Hội nghị toàn quốc c ủa Đảng và Đ ại h ội qu ốc dân đã h ọp, quy ết
định tổng khởi nghĩa. Đại hội quốc dân đã bầu ra Ủy ban gi ải phóng dân tộc Vi ệt Nam do H ồ
Chí Minh làm Chủ tịch. Tháng 8-1945, Người lãnh đạo nhân dân kh ởi nghĩa danh chính quy ền
trong cả nước. Ngày 2-9-1945, tại quảng trường Ba Đình l ịch s ử Ng ười đ ọc b ản Tuyên ngôn
độc lập , tuyên bố thành lập nước Việt Nam Dân ch ủ C ộng hòa và Bác tr ở thành v ị Ch ủ t ịch
đầu tiên của nước Việt Nam độc lập. Ngay sau khi dành độc lập chưa đ ược bao lâu thì th ực
dân Pháp gây chiến tranh, âm mưu xâm chiếm Vi ệt Nam m ột l ần n ữa. Tr ước n ạn ngo ại xâm,
chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi cả nước đứng lên bảo v ệ n ền đ ộc l ập, t ự do v ới tinh th ần:
“Chúng ta thà hi sinh tất cả, chứ nhất định không chịu m ất nước, nhất đ ịnh không ch ịu làm nô
lệ”. Người đã khởi xướng phong trào thi đua yêu nước cùng trung ương Đ ảng lãnh đ ạo nhân
dân tiến hành cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kì, d ựa vào chính s ức mình, t ừng
bước dành thắng lợi. Nhà nước chính phủ mới đối mặt với muôn vàn khó khăn v ề c ả đ ối n ội
và đối ngoại, khi này Việt Nam chưa được bất c ứ qu ốc gia nào công nh ận, không ph ải thành
viên Liên hiệp quốc, cũng không nhận được sự ủng hộ về mặt vật chất c ủa n ước c ộng s ản
nào. Ngoài 20 vạn quân Tưởng ở miền Bắc, còn quân Anh, Pháp và 6 vạn quân Nh ật. Trong
nước, giặc đói, giặc dốt và ngân quỹ trống rỗng là những vấn đề h ệ tr ọng nh ất. B ởi th ế, phát
triển giáo dục xóa nạn mù chữ bằng các lóp bình dân h ọc v ụ. Đ ể di ệt gi ặc d ốt, ngoài vi ệc kêu
gọi tăng gia sant xuất, Bác đề nghị đồng bào “c ứ 10 ngày nh ịn 1 b ữa ăn, m ỗi tháng nh ịn 3 b ữa”
để đem số gạo tiết kiệm được cứu dân nghèo. Bản thân Bác gương m ẫu th ực hiên vi ệc nh ịn
ăn để cứu đói này. Đối phó với ngoại xâm Bác nói: “Chính sách c ủa ta hiên nay là chính sách
Câu Tiễn, nhưng nhẫn nhục không phải là khuất phục”. Đại h ội lần II c ủa Đ ảng (1951),
người được bầu làm Chủ tịch. Dưới sự lãnh đạo của Trung ương Đảng và Ch ủ t ịch H ồ Chí
Minh, cuộc kháng chiến thần thánh của nhân dân Việt Nam chống thực dân Pháp dành th ắng
lợi to lớn, kết thúc vẻ vang bằng chiến thắng Điện Biên Phủ, giải phóng hoàn toàn mi ền Bắc.
Từ đây xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, đấu tranh gi ải phóng mi ền Nam, th ống nh ất
đất nước. Đại hội Đảng lần III, họp tháng 9-1960, người khẳng định: “Đ ại h ội l ần này là Đ ại
hội xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh hòa bình th ống nh ất n ước nhà”. T ại
Đại hội, Người được bầu làm Chỉ tịch Ban chấp hành Trung ương Đảng.
- Năm 1964, Mỹ mở cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc. Để động viên toàn dân, Người
nói: “Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm ho ặc lâu hơn nữa. Hà N ội, Hải Phòng
và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá. Song nhân dân Việt Nam quyết không s ợ!
Không có gì quý hơn độc lập tự do! Đến ngày thắng lợi nhân dân ta sẽ xây d ựng l ại đ ất n ước
ta đàng hoàng hơn , to đẹp hơn”.
Ngày 2-9-1969, Bác từ trần, hưởng thọ 79 tuổi. Trước khi qua đời, Người để lại cho
nhân dân Việt Nam bản di chúc lịch sử. Người viết: “Điều mong muốn cuối cùng c ủa tôi là:
Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Vi ệt Nam hòa bình, th ống
nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách m ạng th ế
giới”. Thực hiện Di chúc, toàn dân ta đoàn kết mộtlòng đánh th ắng cu ộc chi ến tranh phá ho ại
bằng máy bay B52 của Mỹ, buộc chính phủ Mỹ phải kí hiệp định Paris ngày 27-1-1973 ch ấm
dứt chiến tranh xâm lược, rút hết quân đội và chư hầu ra kh ỏi mi ền Nam Vi ệt Nam. Mùa xuân
1975, chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, nhân dân Vi ệt Nam đã hoàn thành s ụ nghi ệp gi ải phóng
dân tộc, thực hiện được mong ước của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là lãnh tụ vĩ đại c ủa dân t ộc Vi ệt Nam. Ng ười đã v ận d ụng và
phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-lênin vào tình hình Việt Nam. Người luôn kết hợp ch ặt ch ẽ
cuộc cách mạng Việt Nam với các cuộc đấu tranh chung của nhân dân UNESCO đã công nh ận
Hồ Chí Minh là anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hóa ki ệt xu ất. Ngày nay, trong s ự nghi ệp
đổi mới đất nước, hội nhập thế giới, tư tưởng Hồ Chí Minh là tài sản tinh th ần to l ớn c ủa
Đảng và dân tộc ta, mãi mãi soi đường cho cuộc đấu tranh c ủa nhân dân Vi ệt Nam vì m ục tiêu
dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
nguon tai.lieu . vn