Xem mẫu

  1. Kinh tế công cộng G.V: Tạ Thị Lê Yên ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI ---------- Th ả o lu ậ n Môn : Kinh t ế công c ộng Lớp: KTCC (P202) Giảng viên:Tạ Thị Lê Yên Nhóm : Kinh Tế Đối Ngoại Trường Đại học Kinh tế - ĐHQGHN >> Đề tài
  2. Kinh tế công cộng G.V: Tạ Thị Lê Yên I, GIỚI THIỆU CHUNG Thiệt hại do ô nhiễm môi trường vô cùng đa dạng. Thiệt hại hữu hình xâm phạm tức thời đến lợi ích kinh tế, ảnh hưởng sức khỏe dưới dạng tồn trữ chất độc hại trong cơ thể… dễ nhận diện; nhưng còn có những thiệt hại tiềm ẩn di hại lâu dài như tổn thương tinh thần, suy tàn dần hệ sinh thái, gây biến động sinh hoạt cộng đồng… thì một người dân bình thường khó có thể tìm ra “chứng cứ” để đòi bồi thường, và không biết phải đòi bồi thường bao nhiêu. Đó chính là cái thiệt thòi mà người dân sống trong môi trường bị ô nhiễm đang phải gánh chịu.Có rất nhiều doanh nghiệp đã vì mục tiêu lợi nhuận trước mắt mà bỏ qua trách nhiệm với xã hội, thờ ơ trước sức khỏe của con người. Họ làm điều này bằng rất nhiều cách khác nhau. Tất cả các hành vi đó đều vi phạm pháp luật, trái với đạo đức và đi ngược với chủ trương xây dựng một nền kinh tế phát triển bền vững của Đảng và Nhà nước, đi ngược với xu thế phát triển chung của thế giới. Một trong những vụ việc nổi cộm gần đây là việc công ty TNHH Bột ngọt Vedan VN đã che giấu hành vi xả thẳng nước thải từ hoạt động sản xuất của mình xuống dòng sông Thị Vải. Các nhà khoa học gọi đó là sự thất bại của thị trường, do những hành vi tư lợi dẫn đến những kết quả không có hiệu quả. Ngoại ứng tiêu cực cũng được gọi là “cái xấu công cộng” đặc biệt là khi ngoại ứng là tương đối lớn so với cầu. Vậy trước những ảnh hưởng xấu của Công Ty Vedan, chính phủ đã có những giải pháp có hiệu quả nào? Vận dụng lý luận về ngoại ứng để phân tích tổn thất phúc lợi xã hội do VEDAN gây ra và đưa ra giải pháp can thiệp của chính phủ nhằm xử lý ngoại ứng này chính là đề tài mà nhóm chúng em muốn nghiên cứu. Nhóm: 2 Đại Học Kinh Tế - Đại Học Quốc Gia Hà Nội
  3. Kinh tế công cộng G.V: Tạ Thị Lê Yên II. NỘI DUNG 1.Lý thuyết về ngoại ứng 1.1. Khái niệm: Khi hành động của một đối tượng (có thể là cá nhân hoặc hãng) có ảnh hưởng trực tiếp đến phúc lợi của một đối tượng khác, nhưng nghững ảnh hưởng đó lại không được phản ánh trong giá cả thị trường thì ảnh hưởng đó được gọi là ngoại ứng. 1.2. Phân loại Ngoại ứng tiêu cực: là những chi phí áp đặt lên một đối tượng thứ ba (ngoài người  mua và người bán trên thị trường), những chi phí đó lại không được phản ánh trên giá cả thị trường. Ngoại ứng tích cực: là những lợi ích mang lại cho bên thứ ba (không phải người mua  và người bán) và lợi ích đó cũng không được phản ánh vào giá bán. 1.3. Đặc điểm ngoại ứng - Chúng có thể do cả hoạt động sản xuất và tiêu dùng gây ra. - Trong ngoại ứng, việc ai là người gây tác hại (hay lợi ích) cho ai nhiều khi chỉ mang tính tương đối. - Sự phân biệt tính tích cực hay tiêu cực của ngoại ứng chỉ mang tính tương đối. - Tất cả ngoại ứng đều phi hiệu quả, nếu tính dưới góc độ xã hội. 2. Phân tích tổn thất phúc lợi xã hội do Vedan gây ra 2.1. Tóm tắt diễn biến: Công ty thực phẩm Vedan, 100% vốn của Đài Loan, xây dựng nhà máy năm 1991 tại huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai, cách TP HCM 75 km. Đến nay, các hạng mục đã đưa vào sản xuất gồm có: nhà máy Xút - Clo, nhà máy bột ngọt, nhà máy tinh bột, nhà máy tinh bột biến đổi, nhà máy lysine... Ngày 13-9-2008, Cục Cảnh sát môi trường (C36) Bộ Công an cho biết vừa phối hợp với Đoàn kiểm tra liên ngành của Bộ Tài nguyên – Môi trường bắt quả tang nhà máy của Công ty cổ phần Hữu hạn Vedan Việt Nam (gọi tắt là Công ty Vedan, huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai) xả một lượng nước thải lớn chưa qua xử lý ra sông Thị Vải. Đặc biệt hơn Vedan từng là đơn vị có “lịch sử” liên quan việc xả nước thải chưa qua xử lý ra sông. Năm 2005, Chỉ khoảng một năm sau khi Công ty Vedan hoạt động thì việc nhà máy sản xuất xả chất thải làm ô nhiễm môi trường cũng bắt đầu... “phát huy tác dụng”. Một số nông ngư dân kiếm sống trên dòng sông Thị Vải phải bỏ nghề. Họ đã khiếu nại và lúc đó được công ty hỗ trợ cho chút đỉnh. Màu nước nâu nâu, đỏ đỏ chạy dài hàng chục kilômet. Khi đem mẫu nước phân tích thấp nồng độ oxy hòa tan trong nước thấp (khoảng 0.3mg/lit) kéo dài hàng chục kilômet trên sông Thị Vải, dường như không còn sự sống ở những đoạn sông này. Tuy nhiên mỗi lần cảnh sát môi trường đi kiểm tra thì lại không thấy bất cứ sai xót, gian lận nào Nhóm: 3 Đại Học Kinh Tế - Đại Học Quốc Gia Hà Nội
  4. Kinh tế công cộng G.V: Tạ Thị Lê Yên trong việc xử lý nước thải của Vedan. Nguyên nhân là Công ty Vedan đã thiết kế và lắp đặt hệ thống bơm, đường ống kỹ thuật để bơm dịch thải sau lên men của Nhà máy sản xuất bột ngọt và Lysine ra cầu cảng số 1 qua đường ống cao su gân thép chìm sâu dưới sông Thị Vải nhằm đổ trực tiếp ra sông Thị Vải. Một hành vi che đậy khéo léo nhằm che mắt cơ quan chức năng. Và phải đến khi bị lực lượng Cảnh sát Môi trường rình bắt quả tang thì hành vi Vedan dùng thủ đoạn tinh vi, xả nước thải vào không qua xử lý trực tiếp sông Thị Vải gây ảnh hưởng tới cuộc sống, sức khỏe… của hàng ngàn hộ dân TP Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bà Rịa - Vũng Tàu mới đuợc đưa ra ánh sáng. Vedan đã đồng ý đền bù nông dân nuôi trồng thủy sản Đồng Nai và Bà Rịa - Vũng Tàu 15 tỷ đồng. Năm 2006, đoàn kiểm tra của Bộ Tài nguyên - môi trường từng “hỏi thăm” đột xuất Công ty Vedan. Vào thời điểm này, Công ty Vedan có ba hệ thống xử lý nước thải khác nhau: hệ thống xử lý nước thải chế biến tinh bột biến tính bằng công nghệ UASB (gọi tắt là hệ thống UASB), xử lý nước thải chế biến tinh bột bằng hệ thống hồ sinh học tự nhiên, hệ thống xử lý nước thải sinh học sản xuất lysin từ mật rỉ đường. dù có xây dựng 3 hệ thống xử lý và xả thải “hiện đại”, nhưng tất cả là nhằm đối phó, đúng hơn là ngụy trang với cơ quan chức năng Trung ương và địa phương. Theo nhận định của đoàn thanh tra, hệ thống này không đảm bảo các tiêu chuẩn kỹ thuật cần thiết cho việc xử lý kỹ th uật, nếu không nói là làm cho có. Vì thế nước thải sau xử lý của hệ thống UASB còn lưu lại hàm lượng cyanure ở mức vượt tiêu chuẩn cho phép thấp nhất là bảy lần và cao nhất 34 lần, trong khi tiêu chuẩn VN giới hạn hàm lượng loại chất độc hại này có trong nước thải sau xử lý phải nhỏ hơn 0,1 mg/lít. Mức độ nguy hại cho môi trường chưa dừng lại ở đó. Trong nước thải sau xử lý của hệ thống hồ sinh học ở Công ty Vedan, cơ quan chức năng còn phát hiện có mẫu nước thải mà hàm lượng chất cyanure chứa trong đó vượt tiêu chuẩn VN đến 5.600 lần - một mức gây ô nhiễm độc hại rất lớn. Trong nước thải sau hệ thống xử lý này, nhiều chất ô nhiễm khác như BOD (nhu cầu oxy sinh học), COD (nhu cầu oxy hóa học), amoniac… đều vượt tiêu chuẩn cho phép rất nhiều lần. Riêng tiêu chuẩn về vi sinh vật gây bệnh vượt tiêu chuẩn (mức cao nhất) đến 1.460 lần. Ngoài ra, nước thải sau xử lý của hệ thống xử lý nước thải sản xuất lysin còn hàm lượng cyanure, BOD, COD… vượt tiêu chuẩn một vài lần. Cũng tại đợt kiểm tra trong năm 2006 của Bộ Tài nguyên - môi trường, đoàn kiểm tra đã phát hiện ở Công ty Vedan có hiện tượng xả trực tiếp nước thải không qua xử lý vào sông Thị Vải. Sau khi phân tích nước thải tại cống thoát nổi thuộc bộ phận sản xuất phân vi sinh của Công ty Vedan, cơ quan chức năng đánh giá tuy khối lượng nước thải nhỏ nhưng hàm lượng các chất ô nhiễm rất cao. Như cyanure vượt tiêu chuẩn 76 lần, trong khi nhiều chất gây ô nhiễm khác vượt tiêu chuẩn từ vài chục đến hàng trăm lần… Năm 2008 Vedan lại bị phát hiện xả chất thải chưa qua xử lý vào sông Thị vải với 1 hệ thống đường ống chằng chịt như trận đồ bát quái, với thủ đoạn tinh vi nên phải sau rất nhiều tháng theo dõi Cục cảnh sát môi trường mới bắt được quả tang được hành vi này. Nhóm: 4 Đại Học Kinh Tế - Đại Học Quốc Gia Hà Nội
  5. Kinh tế công cộng G.V: Tạ Thị Lê Yên Sau khi bị phát hiện vụ bê bối về môi trường, Vedan đã bị UBND tỉnh Đồng Nai buộc tạm dừng sản xuất khắc phục hậu quả, cụ thể là rà soát lại hệ thống xử lý nước thải. Và ông Yang Kun Xiang, Phó Chủ tịch HĐQT, đại diện Công ty TNHH Vedan đã gửi lời xin lỗi đến người dân Việt Nam vì hành động sai trái của Công ty này. Việc gây ô nhiễm môi trường đã rõ ràng. Hậu quả thiệt hại đã được xác định. Nhưng đến nay trách nhiệm pháp lý của Vedan đối với người bị thiệt hại vẫn chưa được làm rõ và nhà nước cũng chưa có cách xử lý thật công bằng, đúng mức, hậu quả từ việc làm sai trái đó vẫn chưa được khắc phục. Sau hàng năm trời đợi các cơ quan chức năng phân định, đá quả bóng trách nhiệm, nhiều người đã khấp khởi khi thấy con số gần 150 tỷ đã xác định Vedan buộc phải bồi thường. Nhưng Vedan thiếu thiện chí khi cho rằng khoản tiền phải trả cho thiệt hại đã gây ra với người dân là tiền "hỗ trợ" chứ không phải tiền "đền bù" để rồi cứ liên tục đưa ra cái giá quá bèo bọt. Sau nhiều lần kỳ kèo trả giá, Vedan dường như đã giành phần thắng khi Đồng Nai đã chấp nhận khoản hỗ trợ 15 tỷ so với con số 1.600 tỷ đồng mà Hội Nông dân tỉnh Đồng Nai thống kê và yêu cầu bồi thường. Với TPHCM Giờ (TPHCM) 45,7 tỷ bằng con số 7 tỷ đồng. Sau nhiều lần thương lượng, Vedan cũng đã trả lời văn bản của UBND TPHCM yêu cầu Cty này bồi thường nông dân Cần mới chỉ đồng ý hỗ trợ 10/53,6 tỷ mà Bà Rịa - Vũng Tàu đưa ra. Không chỉ con số đang teo tóp đi mà cách bồi thường của Vedan còn thể hiện thái độ xem thường. Với việc Cty vedan từ chối mức đòi bồi thường trên 54 tỷ đồng đối với TPHCM và trên 53 tỷ đồng với Bà Rịa - Vũng Tàu, hai địa phương này quyết tâm khởi kiện Cty Vedan ra tòa. Tuy nhiên bà con tỉnh Đồng Nai lạicùng nhất trí việc hỗ trợ và đề nghị nâng mức hỗ trợ lên 20 tỷ đồng vì cho rằng khó khăn là người dân không có chứng cứ để khởi kiện. Sau khi đuợc Đoàn Luật sư tỉnh Đồng Nai trực tiếp tư vấn thì người dân tỉnh Đồng Nai tiếp tục tiến hành làm hồ sơ để kiện Vedan. Và cho đến những ngày cuối tháng 7/2010, nông dân 3 tỉnh, thành ven sông Thị Vải đồng lo ạt gửi đơn khởi kiện Vedan ra tòa án địa phương dù mức bồi thường đã được đại diện phía Vedan “nhích” dần lên. Trước thái độ cò kè nhích mức giá bồi thường của Vedan, người dân cả nuớc bức xúc. Và sản phẩm của Vedan bắt đầu bị ngươì tiêu dùng “tẩy chay” vào đầu tháng 8/2010. Không chỉ trong các hệ thống kinh doanh siêu thị mà ngay tại các cửa hàng bán lẻ của Thủ đô Hà Nội cũng có dấu hiệu “quay lưng lại” với sản phẩm của Vedan. Các hệ thống siêu thị lớn như Co.opMart, big C sẽ không kinh doanh sản phẩm bột ngọt, hạt nêm mang nhãn hiệu Vedan. Đồng thời cũng buộc Vedan phải có biện pháp thu hồi sản phẩm cho đến khi khắc phục xong sự cố và giải quyết thỏa đáng cho bà con nông dân”. Lúc này vai trò của ngừơi tiêu dùng phát huy tác dụng. Trước thái độ cương quyết của ngừơi tiêu dùng, ngày 9/8, Công ty Vedan đã bất ngờ chấp nhận bồi thường 100% thiệt hại cho nông dân TP.HCM là 45,74 tỷ đồng và tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu là 53,619 tỷ đồng theo con số thống kê của Viện TN&MT thuộc ĐH Quốc gia TP.HCM đưa ra trước đó. Riêng con số thiệt hại của tỉnh Đồng Nai là 119,581 tỷ đồng, sẽ được các cơ quan chức năng tỉnh Đồng Nai và Vedan cùng tính toán tiếp. Sau gần 2 năm bị phát hiện xả thẳng chất thải không qua xử lý ra sông Thị Vải, gây ô nhiễm môi trường, làm thiệt hại về kinh tế cho nông dân khu vực, Vedan đã phải chấp nhận bồi Nhóm: 5 Đại Học Kinh Tế - Đại Học Quốc Gia Hà Nội
  6. Kinh tế công cộng G.V: Tạ Thị Lê Yên thường thiệt hại đúng bằng 100% số tiền yêu cầu của người dân 3 tỉnh, thành phố là gần 220 tỷ đồng. 2.2. Những tổn thất do Vedan gây ra mà xã hội đang phải gánh chịu Thành lập từ 1954, công ty thực phẩm Vedan, 100% vốn của Đài Loan, đã gây ra nhiều vụ ồn ào về ô nhiễm môi trường. Nhà máy của Vedan chuyên làm bột ngọt và bột mỳ nằm sát sông Thị Vải, huyện Long Thành tỉnh Đồng Nai, đã từng gây ra hiện tượng tôm cá chết hàng loạt. Không chỉ sông Thị Vải mà toàn tuyến lưu vực sông Đồng Nai, từ lâu đã được báo động là ô nhiễm do nước thải các nhà máy sản xuất của 56 khu công nghiệp và khu chế xuất đanghoạt động. Theo kết quả điều tra và khảo sát của Cục Bảo vệ môi trường, nước sông Đồng Nai, đoạn từ nhà máy nước Thiện Tân đến Long Đại, đã bắt đầu ô nhiễm chất hữu cơ và chất rắn lơ lửng, đáng chú ý đã phát hiện hàm lượng chì vượt tiêu chuẩn TCVN 5942-1995. Tại đây, chất rắn lơ lửng thường vượt tiêu chuẩn 3 - 9 lần, giá trị COD (nhu cầu ôxy hóa học) vượt 1,8 - 2,8 lần. Một kết quả khảo sát của Sở Tài nguyên và Môi trường Tp.HCM gần đây, cũng cho những con số tương tự về mức độ ô nhiễm của hệ thống sông Sài Gòn (thuộc lưu vực Đồng Nai). Cũng theo kết quả khảo sát này, các sông khác trong toàn lưu vực, chất lượng nước cũng đang bị suy giảm trầm trọng. Ô nhiễm nhất trong toàn bộ lưu vực đó là sông Thị Vải, trong đó có một đoạn sông dài trên 10 km gọi là “dòng sông chết”. Đây là đoạn sông từ sau khu vực hợp lưu Suối Cả - sông Thị Vải khoảng 2 km đến khu công nghiệp Mỹ Xuân. Hình ảnh nước thải của Vedan ra sông Thị Vải. Tại đây, nước bị ô nhiễm hữu cơ trầm trọng, có màu nâu đen và bốc mùi hôi thối cả ngày lẫn đêm, cả khi thủy triều. Theo kết quả khảo sát của Bộ Tài nguyên và Môi trường, giá trị DO ở đây thường xuyên dưới 0,5 mg/l, có nơi chỉ 0,04 mg/l. Với giá trị DO gần như bằng 0 như vậy, các loài sinh vật hầu như không còn khả năng sinh sống, các nhà khoa học đã gọi đoạn sông này là “đặc sệt sự chết!”. Việc xả nước thải chưa qua xử lý của công ty Vedan là nguyên nhân chính làm sông Thị Vải ô nhiễm trầm trọng, chiếm khoảng 89%, trên chiều dài 10-11km. Phần còn lại do nước thải của các khu công nghiêp, doanh nghiệp khác trong khu vực gây nên. Vùng ảnh hưởng nặng gồm một phần các xã Phước An, Long Thọ (huyện Nhơn Thạch) và các xã Long Phước, Phước Thái (huyện Long Thành) của tỉnh Đồng Nai; các xã Mỹ Xuân, thị trấn Phú Mỹ, Tân Phước thuộc huyện Tân Thành tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu. Tổng diện tích tự nhiên vùng này là 157,9km2 trong đó có hơn 1.990 ha đất nuôi trồng thủy hải sản. Vùng này bị ảnh hưởng do nồng độ các chất ô nhiễm như DO, BOD5, COD, NH4+, NO2-… đủ gây chết hoặc làm chậm sự phát triển của thủy sản tự nhiên hoặc nuôi trồng với tần suất xuất hiện trong các mẫu kết quả quan trắc từ 85% trở lên. Phần ảnh hưởng nhẹ gồm một phần xã Phước An (Nhơn Trạch- Đồng Nai), một phần xã Tân Phước và Phước Hòa (Tân Thành, Bà Rịa- Vũng Tàu) và một phần xã Thành An (Cần Nhóm: 6 Đại Học Kinh Tế - Đại Học Quốc Gia Hà Nội
  7. Kinh tế công cộng G.V: Tạ Thị Lê Yên Giờ- Tp Hồ Chí Minh). Vùng này cũng bị ảnh hưởng do các chất ô nhiễm DO, BOD5, COD, NH4+, NO2- không phù hợp với điều kiện nuôi trồng thủy sản hoặc ảnh hưởng đến sự phát triển của thủy sản tự nhiên với tần suất xuất hiện trong các mẫu kết quả quan trắc khoảng 50%. 2.3. Phân tích tác động ngoại ứng tiêu cực do Vedan gây ra cho xã hội MB,MC MSC = MPC + MEC MPC C A B MEC E MB b a Q 0 Q0 Q1 Ngoại ứng tiêu cực do Vedan gây ra Gọi MEC là Chi phí ngoại ứng biên mà người nông dân phải chịu. MPC là Chi phí tư nhân biên, tức là mọi khoản chi phí để thực hiện sản xuất của Vedan. MB là Lợi ích biên mà Vedan thu được, ứng với từng mức sản lượng. MSC là đường Chi phí biên đối với xã hội, gồm 2 bộ phận cấu thành: Chi phí tư nhân biên của nhà máy MPC, Chi phí ngoại ứng biên mà người nông dân phải gánh chịu MEC Theo đồ thị ta thấy: Công ty Vedan vì mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận thì họ sẽ sản xuất có hiệu quả nhất tại điểm MB=MC. Vì MC mà Vedan quan tâm là là MPC nên họ sẽ sản xuất tại điểm B, tại đó MB=MPC. Do đó Q1 là sản lượng tối ưu của thị trường. Sản lượng tối ưu của xã hội được xác định tại điểm A với sản lượng sản xuất là Q 0
  8. Kinh tế công cộng G.V: Tạ Thị Lê Yên đến Q1 là tam giác ABE. Những người nuôi thủy sản ở khu vực sông Thị Vải sẽ bị thiệt do Vedan gây ra được xác định bởi MEC. Khi sản lượng mà Vedan tăng từ Q0 đến Q1 là diện tích hình thang Q0abQ1 . Vì diện tích hình thang này đúng bằng diện tích hình thang ACBE nên sau khi bù đắp phần lợi nhuận tăng thêm của Vedan thì xã hội vẫn bị thiệt phần diện tích ABC. III, Giải pháp khắc phục ngoại ứng tiêu cực do Vedan gây ra 3.1 Những giải pháp dựa trên lý thuyết 3.1.1. Các giải pháp tư nhân - Quy định quyền sở hữu tài sản: + Nếu nhà máy sở hữu dòng sông: Nhà máy sẵn sàng không sản xuất thêm hàng hóa nếu người nông dân đền bù cho họ một số tiền không thấp hơn lợi ích ròng mà họ thu được từ việc sản xuất (MB – MPC). Và người nông dân sẵn sàng đền bù nếu số tiền mà họ phải bỏ ra không lớn hơn mức thiệt hại mà họ phải chịu từ việc sản xuất của nhà máy (MEC). Giao dịch đền bù sẽ được thực hiện tại đơn vị sản lượng j nào đó thỏa mãn: MEC tại j ≥ Mức đền bù ≥ MB – MPC tại j + Nếu người nông dân sở hữu dòng sông (trường hợp Vedan) Nhà máy sẵn sàng đền bù cho người nông dân nếu mức đền bù không lớn hơn lợi ích mà họ thu được từ việc sản xuất (MB – MPC). Và người nông dân sẵn sàng chấp nhận mức đền bù nếu nó không nhỏ hơn thiệt hại mà họ phải chịu. Kết quả trong trường hợp này sẽ ngược lại với bất đẳng thức trên: MEC tại j ≤ Mức đền bù ≤ MB – MPC tại j - Sáp nhập là một cách để giải quyết ngoại ứng. Nếu người nông dân và công ty Vedan liên kểt lại với nhau thì lợi nhuận của liên doanh giữa 2 bên sẽ cao hơn tổng mức lợi nhuận đơn lẻ của từng bên khi chưa liên kết. Khi đó, liên doanh sẽ phải cân nhắc lợi ích của cả 2 hoạt động và dừng lại ở mức sản lượng tối ưu xã hội vid đó cũng là điểm mà lựoi nhuận của liên doanh là lớn nhất. Người nông dân và công ty Vedan có thể liên kết lại bằng cách là các nông, thủy phẩm của người nông ngư dân là nguyên liệu để chế biến sản phẩm của Vedan. Vedan nên đa dạng hóa các loại hình sản phẩm của mình để có thể tận dụng được nguyên liệu thu mua từ người dân… - Dùng dư luận xã hội: Trong trường hợp của Vedan thì sức mạnh của dư luận xã hội đã phát huy đầy đủ tác dụng của nó. Bằng chứng là mọi người dân Việt Nam – với tư cách là các cấp chính quyền, giới truyền thông, các luật sư cho đến người tiêu dùng đều đứng về phía người nông dân. Giới truyền thông liên tục đăng tải các thông tin về diễn biến vụ việc ô nhiễm này, các cấp chính quyền tìm cách đưa ra chứng cứ để đưa ra khung hình phạt cao nhất đối với Vedan, các luật sư thì tư vấn cho nguời dân khởi kiện Vedan, người tiêu dùng thì tẩy chay sản phẩm của Vedan. Khi đó, Vedan đã buộc phải chấp nhận các khung hình phạt và chấp nhận bồi thường 100% cho người dân. Nhóm: 8 Đại Học Kinh Tế - Đại Học Quốc Gia Hà Nội
  9. Kinh tế công cộng G.V: Tạ Thị Lê Yên 3.1.2. Các giải pháp của chính phủ - Đánh thuế: Đánh thuế đối với ngoại ứng tiêu cực Khi chịu thuế này đường MPC của nhà máy sẽ dịch chuyển song song lên thành MPC + t. Để tối đa hóa lợi nhuận nhà máy sẽ đặt MB = MPC + t, tức là giảm sản lượng sản xuất. MEC tại mức sản lượng tối ưu xã hội chính là đoạn aQ0, hay cũng là đoạn AE. Để không có tổn thất xã hội thì thuế đánh tối đa là t = MEC. Khi đó chính phủ sẽ thu thêm được một khoản thuế là t.Q0, khoản thuế này sẽ được chính phủ sử dụng để đền bù cho người nông dân. - Trợ cấp: Giả sử với mỗi đơn vị sản lượng nhà máy ngừng sản xuất chính phủ sẽ trợ cấp cho họ một khoản bằng AE. Khi đó nhà máy sẽ cân nhắc xem mức trợ cấp với lợi ích biên ròng khi sản xuất thêm một đơn vị sản phẩm. Theo hình vẽ, với tất cả các đơn vị sản phẩm từ Q 1 đến Q0, ta có thể thấy mức lợi ích biên ròng của nhà máy luôn thấp hơn mức trợ cấp nên nhà máy sẽ không sản xuất những đơn vị sản phẩm này nữa. Nếu những đơn vị sản lượng từ Q0 trở xuống thì mức trợ cấp lại ít hơn lợi ích biên ròng, nên chính sách trợ cấp không còn hấp dẫn nhà máy nữa. Nhà máy sẽ dừng sản xuất tại Q0. Nhóm: 9 Đại Học Kinh Tế - Đại Học Quốc Gia Hà Nội
  10. Kinh tế công cộng G.V: Tạ Thị Lê Yên Trợ cấp đối với ngoại ứng tiêu cực Giải pháp này đi ngược lại các quan điểm đạo đức xã hội, hơn nữa nó có thể lôi kéo các nhà sản xuất khác vào nên không được sử dụng. - Hình thành thị trường về ô nhiễm: Trong trường hợp này, chính phủ sẽ trao cho nhà máy các giấy phép xả thải. Có 2 hình thức trao giấy phép xả thải cho nhà máy: + Thứ nhất, chính phủ sẽ cho các doanh nghiệp đấu giá để mua các giấy phép xả thải này. Mức giá của những giấy phép này sẽ là mức giá cân bằng thị trường sao cho lượng ô nhiễm đúng bằng mức chỉnh phủ mong muốn. Nhóm: 10 Đại Học Kinh Tế - Đại Học Quốc Gia Hà Nội
  11. Kinh tế công cộng G.V: Tạ Thị Lê Yên Thiết lập thị trường về giấy phép xả thải Chính phủ tuyên bố bán đấu giá Z* giấy phép xả thải, cung giấy phép xả thải là đường thẳng đứng tại điểm Z*. Đường cầu giấy phép là đường dốc xuống. Mức giá cho mỗi giấy phép là P*. + Thứ hai, thay vì đấu giá, chính phủ sẽ phát không cho các nhà máy một số lượng giấy phép xả thải nhất định. Nếu nhà máy muốn thải thêm ra môi trường thì sẽ phải mua số giấy phép này từ các nhà máy khác. Kết quả cũng tương tự như trường hợp 1. -Kiểm soát trực tiếp bằng mức chuẩn thải: Theo cách này, mỗi hãng sản xuất sẽ bị yêu cầu chỉ được gây ô nhiễm ở một mức nhất định, gọi là mức chuẩn thải, nếu không sẽ bị đóng cửa. Kiểm soát ngoại ứng tiêu cực bằng quy định chuẩn thải Trục hoành thể hiện mức khỉ thải mà các nhà máy thải ra môi trường. Đường MB là lợi ích biên của mỗi hãng khi gây ô nhiễm. Nếu chính phủ áp đặt một mức chuẩn thải, chỉ cho phép các hãng được xả thải đến mức Z*, hãng X phải giảm mức xả thải từ Qx xuống Z*, còn hãng Y lại được tăng mức thải từ Qy* lên đến Z*. Mức chuẩn thải này ko hiệu quả vì nó đã khiến X giảm mức gây ô nhiễm xuống dưới mức hiệu quả. Tại Z*, MCx < MSBx nên tổn thất phúc lợi là tam giác ABC. Nếu áp dụng phí xả thải ở mức P* thì hãng sẽ sản xuất ở điểm C và sự phi hiệu quả biến mất. Tương tự với hãng Y sẽ xả thải nhiều hơn mức hiệu quả vì tại Z*, MCy > MSBy. Tổn thất phúc lợi xã hội là tam giác FGH. Tổn thất này sẽ không còn nếu áp dụng phí xả thải là P*/tấn. 3.2. Giải pháp thực tế Nhóm: 11 Đại Học Kinh Tế - Đại Học Quốc Gia Hà Nội
  12. Kinh tế công cộng G.V: Tạ Thị Lê Yên Trong vụ sai phạm của Vedan, các cơ quan ban ngành của Chính phủ đã chính thức vào cuộc để làm rõ những sai phạm của công ty này và có những xử phạt thích đáng. Thủ tướng Chính phủ đã có văn bản chỉ đạo các cơ quan chức năng khẩn trương và kiên quyết tổ chức thực hiện các biện pháp xử lý vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường đối với Công ty Cổ phần hữu hạn Vedan Việt Nam. Thủ tướng cũng chỉ đạo, các cơ quan này phải trực tiếp kiểm tra, giám sát việc thực hiện các biện pháp xử lý này, báo cáo kết quả lên Thủ tướng. Thủ tướng Chính phủ lưu ý, phải đảm bảo quyền lợi chính đáng, hợp pháp của người lao động tại công ty và các tổ chức, cá nhân khác có liên quan khi xử lý vụ Vedan. Thủ tướng cho phép Quỹ Bảo vệ Môi trường Việt Nam tiếp nhận và sử dụng đúng quy định khoản tiền thu được từ việc xử phạt vi phạm hành chính, truy thu phí bảo vệ môi trường trốn nộp… của Công ty Vedan gây ô nhiễm trên lưu vực sông Thị Vải. Bộ Tài nguyên và Môi trường, UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc lưu vực hệ thống sông Đồng Nai khẩn trương xây dựng và thực hiện các dự án thuộc đề án tổng thể xử lý, khắc phục ô nhiễm môi trường lưu vực sông Đồng Nai, trong đó có sông Thị Vải. Thủ tướng giao các bộ, ngành liên quan rà soát, nghiên cứu, đề xuất với Chính phủ xem xét, trình Quốc hội sửa đổi, bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật về bảo vệ môi trường; bảo đảm sự đồng bộ, tính hiệu lực, hiệu quả với chế tài mạnh, có tính răn đe cao, phục vụ tốt hơn cho công tác quản lý Nhà nước về bảo vệ môi trường trong thời gian tới. Thủ tướng yêu cầu lãnh đạo các bộ, ngành, địa phương kiên quyết không vì lợi nhuận trước mắt mà coi nhẹ, buông lỏng vấn đề bảo vệ môi trường. Nhất thiết phải kết hợp chặt chẽ và hài hòa giữa phát triển kinh tế, xã hội với bảo vệ môi trường, bảo đảm phát triển bền vững đất nước. Lãnh đạo các bộ, ngành, địa phương cần chỉ đạo đẩy mạnh hơn nữa việc thực thi pháp luật về bảo vệ môi trường; tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra và xử lý nghiêm các vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường trên phạm vi cả nước; tăng cường lực lượng cán bộ, đầu tư thêm trang thiết bị, cơ sở vật chất kỹ thuật để công tác kiểm tra, thanh tra và xử phạt vi phạm đạt hiệu quả cao hơn trong thời gian tới. Bên cạnh chỉ đạo xử lý kiên quyết vụ Vedan của thủ tướng chính phủ, Bộ Tài nguyên & Môi trường (TN-MT) đã văn bản gửi UBND các tỉnh, thành: Bà Rịa - Vũng Tàu, Đồng Nai, TP.HCM và Công ty Cổ phần hữu hạn Vedan Việt Nam về việc kiểm tra tình hình khắc phục hậu quả vi phạm của Công ty Vedan theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ. Bộ TN-MT đã làm việc với Công ty CPHH Vedan Việt Nam về tình hình giải quyết đền bù thiệt hại về kinh tế và môi trường, trách nhiệm chi trả kinh phí và hỗ trợ thiệt hại theo qui định của pháp luật cho các tổ chức, cá nhân liên quan do hành vi vi phạm về bảo vệ môi trường của Công ty CPHH Vedan Việt Nam gây ra đối với sông Thị Vải. Nhóm: 12 Đại Học Kinh Tế - Đại Học Quốc Gia Hà Nội
  13. Kinh tế công cộng G.V: Tạ Thị Lê Yên Ngày 6/10/2008, Chánh Thanh tra Bộ Tài nguyên & Môi trường (TN&MT) Lê Quốc Trung đã ký quyết định “xử phạt vi phạm hành chính và bảo vệ môi trường” (BVMT) đối với Công ty Cổ phần Hữu hạn Vedan Việt Nam (Cty Vedan), số tiền 267.500.000 đồng đối với các hành vi xả nước thải vượt tiêu chuẩn chưa qua xử lý ra sông Thị Vải và không nộp phí BVMT đối với nước thải công nghiệp... Tạm đình chỉ hoạt động một số nhà máy Theo Thanh tra Bộ TN&MT, hành vi vi phạm pháp luật về BVMT của Công ty Vedan là hành vi tái phạm, mang tính hệ thống, có tổ chức và kéo dài, có biểu hiện coi thường pháp luật Việt Nam, gây ô nhiễm nghiêm trọng đối với sông Thị Vải và môi trường xung quanh. Trong đó có tình ti ết tăng n ặng theo quy định tại khoản 1, khoản 2, khoản 8 và khoản 9 Điều 9 ,Pháp lệnh của Uỷ ban Thường vụ Quốc Hội số 44/2002/PL-UBTVQH 10 ngày 02 tháng 7 năm 2002 về việc xử lý vi phạm hành chính. Cũng theo Thanh tra Bộ TN&MT, đối với các hành vi vi phạm hành chính không xử phạt ti ền do hết thời hiệu xử phạt, vẫn áp dụng các biện pháp khắc phục hậu quả gồm: Không đăng ký cam kết bảo vệ môi trường với cơ quan quản lý Nhà nước về bảo vệ môi trường đối với trại chăn nuôi heo; Không lập báo cáo đánh giá tác động môi trường mà đã xây dựng và đưa công trình vào hoạt động đối với Dự án đầu tư nâng công suất đối với phân xưởng sản xuất Xút – Axít. Không lập báo cáo đánh giá tác động môi trường mà đã xây dựng và đưa công trình vào ho ạt động đối với Dự án đầu tư nâng công suất đối với các Nhà máy: bột ngọt từ 5.000 tấn/tháng lên 15.000 tấn/tháng, tinh bột biến tính từ 2.000 tấn/tháng lên 4.000 tấn/tháng, Lysine từ 1.200 tấn/tháng lên 1.400 tấn/tháng, bột gia vi cao cấp 20 tấn/tháng, PGA 700 tấn/năm, phân Vedagro 70.000 tấn/ năm (rắn) và 280.000 tấn/năm (lỏng), cảng 12.000 tấn . Thanh tra Bộ TN&MT yêu cầu Vedan phải tiến hành ngay các biện pháp khắc phục hậu quả. Cụ thể, chấm dứt hoạt động xả chất thải (dịch thải sau lên men, nước thải, dung dịch bùn thải) không đạt tiêu chuẩn Việt Nam về môi trường cho phép (quy chuẩn kỹ thuật về chất thải) ra môi trường. Tạm đình chỉ hoạt động sản xuất có phát sinh nước thải và dịch thải sau lên men của Nhà máy Sản xuất tinh bột biến tính; Nhà máy Sản xuất Bột ngọt và Lysine; Trại chăn nuôi heo và các nhà máy khác của công ty cho tới khi có biện pháp xử lý nước thải và dịch thải sau lên men đạt quy chuẩn kỹ thuật quốc gia. Công ty chỉ được phép hoạt động trở lại khi có văn bản kết luận đã hoàn thành các biện pháp xử lý ô nhiễm môi trường của Tổng cục Môi trường. Dỡ bỏ hệ thống cống “ngầm”, bồi thường thiệt hại Ngoài ra, Thanh tra Bộ cũng áp dụng các biện pháp “mạnh tay” khác: trong vòng 1 tháng, Vedan phải gỡ bỏ toàn bộ hệ thống cống ngầm và thiết bị bơm từ khu vực sản xuất ra sông Thị Vải; cải tạo toàn bộ hệ Nhóm: 13 Đại Học Kinh Tế - Đại Học Quốc Gia Hà Nội
  14. Kinh tế công cộng G.V: Tạ Thị Lê Yên thống thu gom, xử lý chất thải lỏng (dịch thải sau lên men, nước thải công nghiệp, nước thải sinh hoạt, bùn thải lỏng) bảo đảm quy chuẩn kỹ thuật về chất thải theo quy định; hệ thống thu gom, xử lý chất thải lỏng của công ty phải đáp ứng các yêu cầu BVMT. Yêu cầu công ty Vedan có trách nhiệm thực hiện đền bù thiệt hại về kinh tế và môi trường do hành vi gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng sông Thị Vải; chi trả chi phí thực hiện các biện pháp khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường sông Thị Vải; chịu trách nhiệm bảo đảm quyền lợi cho hơn 2.000 lao động đang làm việc tại công ty và các tổ chức cá nhân, hộ gia đình đã ký hợp đồng kinh tế cung cấp nguyên liệu trong thời gian bị tạm đình chỉ hoạt động sản xuất do hành vi vi phạm pháp luật của công ty gây ra. Công ty Vedan có trách nhiệm phối hợp với cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong việc xác định các vi phạm của một số cá nhân của Công ty (Chủ tịch Hội đồng quản trị, Tổng Giám đốc và một số cá nhân có liên quan) khi có yêu cầu của Cơ quan có thẩm quyền Việt Nam . Thanh tra Bộ cũng đề nghị Bộ trưởng Bộ TN&MT thu hồi giấy phép xả nước thải vào nguồn nước cho tới khi thực hiện xong các biện pháp BVMT theo quy định của pháp luật mới xem xét cấp lại. Trong trường hợp Vedan không chấp hành đầy đủ các quyết định trên, tiếp tục gây ô nhiễm môi trường lưu vực sông Thị Vải, Chủ tịch UBND tỉnh Đồng Nai căn cứ thẩm quyền ra quyết định xử lý đối với công ty này ở hình thức cao hơn theo quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường như: tạm thời đình chỉ hoạt động sản xuất của công ty cho đến khi thực hiện xong biện pháp bảo vệ môi trường cần thiết; buộc di dời cơ sở đến vị trí xa khu dân cư và phù hợp với sức chịu tải của môi trường; cấm hoạt động. Quyết định xử phạt hành chính 200 triệu đồng đối với việc Vedan gây ô nhiễm nghiêm trọng sông Thị Vải 14 năm được coi là mức hình phạt cao nhất hiện nay, song nhiều người lại cho rằng "chẳng bõ bèn gì". Trách nhiệm của Vedan còn nhiều. Ví dụ truy thu phí nước thải, đền bù cho những hộ dân ven sông Thị Vải bị thiệt hại sinh kế, đền bù cho các hộ trồng sắn sử dụng “phân bón” vedagro, đóng góp làm sạch môi trường sông Thị Vải. Ngoài ra, DN này có thể còn phải trách nhiệm hình sự theo quy định ở Chương 17 Bộ luật Hình sự Việt Nam…  Công ty Vedan chấm dứt việc xả chất thải không đạt tiêu chuẩn quy định vào nguồn n ước, đồng thời phải tiến hành xử lý, khắc phục được hậu quả ô nhiễm môi trường nghiêm trọng do Công ty gây ra và duy trì được sản xuất, kinh doanh, giải quyết việc làm, bảo đảm quyền lợi cho người lao động. Tình hình khắc phục hậu quả vi phạm của Công ty Vedan Nhóm: 14 Đại Học Kinh Tế - Đại Học Quốc Gia Hà Nội
  15. Kinh tế công cộng G.V: Tạ Thị Lê Yên Thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã phối hợp với Ủy ban nhân dân tỉnh Đồng Nai và các Bộ, ngành có liên quan kiểm tra, giám sát chặt chẽ việc khắc phục hậu quả vi phạm của Công ty Vedan. Tính đến hết ngày 31 tháng 12 năm 2009, Công ty Vedan đã thực hiện đúng một số nội dung, yêu cầu về bảo vệ môi trường theo như cam kết, cụ thể: a) Đã nộp tiền phạt vi phạm hành chính 267.500.000 đồng; b) Đã nộp 127.268.067.520 đồng tiền phí bảo vệ môi trường truy thu theo Quyết định số 131/QĐ-XPHC ngày 06 tháng 10 năm 2008 của Chánh Thanh tra Bộ Tài nguyên và Môi trường về xử phạt vi phạm hành chính; c) Đã thực hiện các biện pháp khắc phục hậu quả vi phạm theo Kết luận kiểm tra số 427/KLKTr-TCMT ngày 29 tháng 5 năm 2009 của Tổng cục Môi trường, với khoản kinh phí đã đầu tư là 33.187.516 USD, cụ thể bao gồm: - Tháo bỏ toàn bộ các tuyến ống ngầm dài trên 2.200 m, 04 máy bơm và 03 họng xả chất thải ngầm cắm sâu 10 m xuống sông Thị Vải; dừng việc thải nước thải vào hệ thống 21 hồ sinh học và bơm nước thải từ 21 hồ này vào hệ thống xử lý, đảm bảo chất lượng nước tại các hồ đã được làm sạch; lắp đặt công tơ điện riêng biệt và đồng hồ đo lưu lượng của hệ thống xuất khẩu CMS ra tàu thủy; lập nhật ký vận hành của các hệ thống xử lý nước thải; - Hoàn thành việc cải tạo, nâng cấp 03 hệ thống xử lý nước thải hiện hữu (4.000 m3/ngày); xây dựng mới 02 hệ thống xử lý nước thải sản xuất (5.000 m3/ngày) và 01 hệ thống xử lý nước thải sinh hoạt (300 m3/ngày), với tổng công suất thiết kế hiện nay là 9.300 m3/ngày; lắp đặt 03 hệ thống quan trắc tự động, đảm bảo nước thải sau xử lý đạt quy chuẩn kỹ thuật quốc gia (QCVN); - Xây dựng và lắp đặt mới 04 dây chuyền sản xuất phân bón (nâng tổng số lên 08 dây chuyền), 01 máy cô đặc dịch thải sau lên men TVR (nâng tổng số lên 02 máy) và các tồn tại về môi trường khác theo đúng cam kết. d) Hiện nay, Công ty Vedan vẫn tạm dừng hoạt động của 04 Nhà máy: Lysine, khoai mì tươi (là 02 nhà máy phát sinh nước thải và dịch thải sau lên men rất khó xử lý), PGA và phát điện 12 MW; đang từng bước nâng công suất của các nhà máy khác lên công suất tối đa. Bộ Tài nguyên và Môi trường vẫn tiếp tục phối hợp với các địa phương kiểm soát chặt chẽ các nguồn thải của Công ty Vedan, đảm bảo các nguồn thải được xử lý đạt QCVN. đ) Công ty Vedan vẫn đảm bảo việc làm và thu nhập cho 2.500 người lao động bằng cách bố trí lại sản xuất và tổ chức đào tạo lại, với mức lương bình quân trên 2,5 triệu đồng/người (chưa bao gồm tiền ăn, phương tiện và tăng ca); thực hiện việc thu mua các sản phẩm nông nghiệp theo hợp đồng kinh tế. e) Công ty Vedan cam kết chịu trách nhiệm chi trả bồi thường thiệt hại về kinh tế và môi trường, đồng thời hỗ trợ người dân trong khu vực bị ảnh hưởng do chất thải của Công ty gây ra theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, trong thời gian gần đây thái độ và tinh thần trách nhiệm giải quyết bồi thường thiệt hại cho người dân của Công ty Vedan chưa thật sự nghiêm túc. IV. KẾT LUẬN Nhóm: 15 Đại Học Kinh Tế - Đại Học Quốc Gia Hà Nội
  16. Kinh tế công cộng G.V: Tạ Thị Lê Yên Đến nay vụ việc Vedan đã đi đến hồi cuối với một kết thúc mà phần thắng nghiêng về lẽ phải, sự đúng đắn và pháp luật được thực thi. Vedan phải chấp nhận đền bù toàn bộ thiệt hại tương đương 119,5 tỷ đồng số liệu do Viện Môi Tài nguyên-Môi trường đưa ra yêu cầu bồi thường thiệt hại cho nông dân ba tỉnh Tp.HCM, Bà rịa-Vũng tàu và Đồng nai cùng với việc khắc phục toàn bộ những sự cố đã xảy ra, đầu tư những trang thiết bị hợp chuẩn để bảo vệ và gìn giữ môi trường. Nhưng vẫn còn rất nhiều câu hỏi được đặt ra đối với các cấp, các ngành: tại sao chỉ khi vụ Vedan xả chất thải ra sông Thị Vải là vụ gây ô nhiễm môi trường được Cục Cảnh sát môi trường - Bộ Công an phối hợp với Bộ Tài nguyên và Môi trường vụ việc mới được phát hiện ngày 13/9/2008? Công tác quản lý môi trường của các địa phương đâu? Qua sự việc trên ta nhận thấy rõ rằng cần có một cơ chế quản lý chặt chẽ hơn khi cấp phép hoạt động cho những công ty nước ngoài khi đầu tư ở Việt Nam. Chúng ta cần biết rõ họ kinh doanh, hoạt động sản xuất lĩnh vực gì, có gây tác hại gì cho Việt Nam không... Để biết được điều đó, cần có ban chuyên môn thẩm định hồ sơ và chức năng hoạt động khi họ đăng ký làm ăn tại Việt Nam. Song song với nó là cơ chế quản lý, giám sát hoạt động của những công ty đó thật chặt chẽ, bám sát. Chính việc thiếu sự thẩm tra hồ sơ, chức năng hoạt động của những công ty như Vedan, cùng sự buông lỏng quản lý, giám sát.. đã gây ra "hiện tượng Vedan". Những thiệt hại mà Vedan gây ra thực sự là lời cảnh báo cho các doanh nghiệp nước ngoài về ý thức bảo vệ môi trường khi đầu tư vào Việt Nam. Pháp luật nước ta nghiêm minh nên sẽ đưa ra những răn đe và sự trừng phạt thích đáng, phù hợp với những vụ việc như vậy. Đây cũng là điều rất quan trọng để phục vụ cho chính sách khuyến khích đầu tư, phát triển. Để nền kinh tế Việt Nam phát triển ổn định , bền vững, phát triển kinh tế mà không làm ảnh hưởng tới sự phát triển sau này thì cần có sự can thiệp đúng lúc của Chính phủ trong việc ngăn ngừa, xử lý các doanh nghiệp, công ty vì lợi ích trước mắt mà làm ảnh hưởng tới thế hệ sau này. Qua vụ việc Vedan chúng ta đã học được một bài học đắt giá ,tuy Vedan đã chấp nhận đền bù cho người dân sống ở khu vực sông Thị Vải với mức đền bù được coi là thỏa đáng nhưng “dòng sông chết” bao giờ mới sống lại ? Tất nhiên người nông dân sẽ được hưởng ít nhiều thành quả đấu tranh kiên định ấy. Nhưng … đất nước Việt nam chung vẫn là kẻ thua cuộc trong cuộc chiến này, bởi luật pháp vẫn không được nghiêm túc thực thi và lẻ phải vẫn chưa được công khai minh định. Thực tế ngày càng có nhiều doanh nghiệp vi phạm Luật Bảo vệ môi trường hoặc kinh doanh thiếu đạo đức, chạy theo lợi nhuận, sản xuất rồi xả thải gây ô nhiễm môi trường, làm tổn hại đến sức khỏe cộng đồng. Để bảo vệ môi trường sống lẫn sức khỏe cộng đồng bởi những "doanh nghiệp đen", cả xã hội phải vào cuộc, kiên quyết lên án với những hành động đó. Hơn nữa, các cơ quan chức năng cần phải siết chặt khâu cấp phép đầu tư, công tác bảo vệ môi trường, xử lý thật nghiêm doanh nghiệp vi phạm Luật Bảo vệ môi trường. Nhóm: 16 Đại Học Kinh Tế - Đại Học Quốc Gia Hà Nội
  17. Kinh tế công cộng G.V: Tạ Thị Lê Yên Nhóm: 17 Đại Học Kinh Tế - Đại Học Quốc Gia Hà Nội
nguon tai.lieu . vn