Xem mẫu
- Võ Đình Huấn
Page |1
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LẠC HỒNG
KHOA KẾ TOÁN KIỂM TOÁN
……
BÀI TẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
BÁN PHÁ GIÁ
Giảng viên: Ngô Văn Phong
Sinh viên: Võ Đình Huấn
Lớp 11KT311
MSSV: 311001338
- MỤC LỤC
Trang
I.Định nghĩa 3
II.Phân loại 3
a)Theo thống lệ quốc tế 3
b)Theo hiến pháp Havana 4
c)Căn cứ vào mục đích và diễn biến 4
d)Những biến tướng của bán phá giá 5
III.Các biện pháp chống bán phá giá 6
IV.Vụ kiện – chống bán phá giá liên quan tới Việt Nam 8
V.Vụ kiện chống bán phá giá trên thế giới 11
CÁC TÀI LIỆU THAM KHẢO 15
2|Page
Võ Đình Huấn
- Võ Đình Huấn
Page |3
I. Định nghĩa
Bán phá giá ( dumping ) là xuất khẩu một sản phẩm nào đó thấp hơn
giá nội địa nhằm chiến lĩnh thị trường thế giới.
Nói một cách đơn giản, để xác định hành động bán phá giá ta phải so sánh
giá cả ở hai thị trường. Tuy nhiên trên thực tế, việc xác định giá hàng hoá
ở thị trường nước xuất khẩu (giá trị bình thường) và giá ở thị trường
nước nhập khẩu (giá xuất khẩu) để tạo ra cơ sở chính xác cho sự so sánh
giá trên hai thị trường là khá phức tạp.
Theo WTO, giá trị bình thường của hàng hoá là giá của hàng hoá đã
được ấn định phụ thuộc vào sức tiêu thụ trên thị trường nước xuất khẩu.
Khi không có giá nội địa để so sánh thì giá trị bình thường được coi là tổng
các chi phí sản xuất, tiêu thụ hàng hoá cộng với một phần lợi nhuận nào
đó. Hoặc theo cách khác, giá trị bình thường có thể là giá xuất khẩu sang
một nước thứ ba. Trong trường hợp khi nước xuất khẩu chưa được công
nhận là có nền kinh tế thị trường thì giá trị bình thường được xác định
trên cơ sở giá hàng hoá tương tự của một nước thứ ba có nền kinh tế thị
trường.
Giá xuất khẩu hàng hoá thường được xác định trên cơ sở giá giao dịch
giữa người xuất khẩu và nhập khẩu tại nước nhập khẩu. Tuy nhiên, giá
giao dịch có thể không được chấp nhận là giá xuất khẩu trong trường hợp
buôn bán đối lưu, hoặc trao đổi nội bộ.
II. Phân loại:
- a) Theo thông lệ quốc tế :
Người ta chia hành động bán phá giá thành 2 loại: bán phá giá hàng sản
xuất trong nước trên thị trường nội địa và bán phá giá hàng nhập khẩu.
Hai trường hợp này thường được tách riêng và được giải quyết theo hai
bộ luật riêng biệt.
- Bán phá giá hàng sản xuất trong nước trên thị trường nội địa là việc cá
nhân hoặc tổ chức sản xuất đặt giá tiêu thụ thấp hơn giá thành tại thị
trường trong nước. Mục tiêu của hành động bán phá giá này là nhằm loại
bỏ khỏi thị trường, hoặc ngăn cản sự thâm nhập thị trường, của một
doanh nghiệp hay một sản phẩm của doanh nghiệp khác.
- Bán phá giá hàng nhập khẩu là việc doanh nghiệp nước ngoài bán hàng
hóa dưới chi phí tại nước nhập khẩu.
b) Theo Hiến chương Havana :
Trong thời gian đàm phán dẫn tới Hiến chương Havana về quan hệ
thương mại quốc tế, những nước tham gia đã chia việc phá giá thành 4
loại:
- Phá giá về giá: Là hành vi được quy định trong điều VI của Hiệp định
GATT (“sản phẩm của một nước được đưa vào kinh doanh trên thị
trường của một nước khác với giá thấp hơn giá trị thông thường của sản
phẩm”).
- Phá giá dịch vụ: Là hành vi tạo ra lợi thế về giá do có phá giá cung cấp
dịch vụ vận tải biển.
- Phá giá hối đoái: Là hành vi dựa trên cơ sở khống chế tỷ giá hối đoái để
đạt được lợi thế cạnh tranh.
- Phá giá xã hội: Là hành vi xuất phát từ việc nhập khẩu hàng hoá với giá
thấp do tù nhân hay lao động khổ sai sản xuất.
Đôi khi một công ty có thể bán ra nước ngoài với giá cao hơn, tình trạng
đó gọi là phá giá ngược.
4|Page
Võ Đình Huấn
- Võ Đình Huấn
Page |5
c) Căn cứ vào mục đích và biểu hiện :
Bán phá giá chia làm 3 loại: bền vững, chớp nhoáng và không thường
xuyên.
- Bán phá giá bền vững (persistent dumping) hay còn gọi là sự phân biệt
giá cả thế giới (international price discrimination) là xu hướng tiếp tục của
nhà độc quyền nội địa nhằm làm cực đại hoá lợi tức của mình thông qua
việc bán sản phẩm với giá cao hơn ở thị trường trong nước (được giải
thích do chi phí vận chuyển và các hàng rào mậu dịch) so với giá cả ở thị
trường thế giới và bán ở thị trường thế giới với giá cả thấp hơn ở thị
trường nội địa (được giải thích là do phải cạnh tranh với các nhà sản xuất
nước ngoài). Điều quan trọng ở đây là các nhà độc quyền nội địa phải tính
toán được tỉ lệ và giá cả giữa hàng bán trong nước và hàng bán ra nước
ngoài để đạt lợi tức cao nhất.
- Bán phá giá kiểu chớp nhoáng (predatory dumping) là một hình thức bán
tạm thời một sản phẩm nào đó ra nước ngoài thấp hơn cả giá thành sản
xuất để loại các nhà sản xuất nước ngoài ra khỏi kinh doanh. Sau đó lại
tăng giá lên để giành lợi thế của sức mạnh độc quyền mới thu được.
- Bán phá giá không thường xuyên (sporadic dumping) là thỉnh thoảng bán
một sản phẩm nào đó ở nước ngoài thấp hơn so với giá bán ở trong nước
nhằm mục đích đỡ bớt được gánh nặng do những rủi ro không dự kiến
trước và số dư tạm thời của sản phẩm mà không cần phải giảm giá nội
địa.
Bán phá giá theo kiểu chớp nhoáng hoàn toàn mang một động cơ xấu. Do
đó, những hạn chế mậu dịch để chống lại kiểu bán này được coi là hợp
pháp hoá và được cho phép áp dụng để bảo hộ các ngành công nghiệp
trong nước chống lại sự cạnh tranh quá mức bất công từ nước ngoài. Tuy
- nhiên, việc xác định hình thức bán phá giá kiểu nào trong thực tế là rất
khó khăn vì không thể hiểu đúng được mục đích của các nhà độc quyền.
Vì vậy, nhìn chung, các nhà sản xuất nội địa đòi hỏi được chính phủ bảo
hộ để chống lại bất cứ một hình thức bán phá giá nào.
d) Những biến tướng của bán phá giá
Khái niệm về phá giá đang được nhiều chuyên gia kinh tế tiếp tục hoàn
chỉnh để giải quyết một thực tế là có những hành vi bán phá giá, mặc dù
bề ngoài biểu hiện là không có sự phá giá theo đúng như công thức so sánh
giá, nhưng công ty đó lại có những hành động khác có thể dẫn đến những
hậu quả tương tự. Đó chính là những biến tướng của bán phá giá. Các
loại biến tướng của phá giá được phân chia chi tiết hơn, bao gồm:
- Phá giá ẩn, được định nghĩa trong bản phụ lục của điều VI của Hiệp
định GATT, là nhà nhập khẩu bán hàng với giá thấp hơn giá ghi trên hoá
đơn của nhà xuất khẩu có mối liên kết với nhà nhập khẩu, đồng thời giá
cũng thấp hơn giá ở nước xuất khẩu. Loại phá giá này là phá giá thông
qua chuyển giá.
- Phá giá gián tiếp là việc nhập khẩu thông qua một nước thứ ba mà tại đó
sản phẩm không bị coi là bán phá giá.
- Phá giá thứ cấp là việc xuất khẩu sản phẩm có chứa đựng các bộ phận
được nhập khẩu với giá thường được xem là phá giá.
III. Các biện pháp chống bán phá giá
Trong đa số các trường hợp, biện pháp chống bán phá giá là áp đặt thuế
chống bán phá giá đối với sản phẩm nhập khẩu (thuế phần trăm giá trị
sản phẩm hoặc thuế cố định trên đơn vị sản phẩm). Biện pháp chống bán
phá giá còn có thể là các hạn ngạch nhập khẩu hoặc kết hợp giữa hạn
ngạch nhập khẩu và thuế chống bán phá giá.
6|Page
Võ Đình Huấn
- Võ Đình Huấn
Page |7
Để bảo vệ lợi ích chính đáng của các ngành sản xuất, luật pháp quốc tế
cho phép thực hiện việc đánh thuế vào hàng hoá bán phá giá. Các quy định
của GATT về thương mại đa biên trong đó có quy định về chống bán phá
giá là cơ sở pháp lý đầu tiên giúp các nước bảo hộ quyền lợi chính đáng
của các ngành sản xuất của họ khi xảy ra hiện tượng bán phá giá. Năm
1995 Tổ chức thương mại thế giới (WTO) đã thành lập Uỷ ban về chống
bán phá giá để kiểm tra việc điều tra và áp dụng thuế chống bán phá giá
của các nước thành viên. Sau khi phát hiện ra hàng hoá bị bán phá giá có
khả năng ảnh hưởng đến ngành sản xuất trong nước, các ngành sản xuất
đề nghị các cơ quan hữu trách thực hiện việc điều tra và đưa ra kết luận
về việc có thực hiện hay không thuế, chống bán phá giá để bảo vệ sản
xuất trong nước.
Tại Mỹ, Bộ thương mại (DOC) và Hội đồng thương mại quốc tế (ITC)
thực hiện nhiệm vụ này; ở Canađa Cục hải quan và thuế (CCRA) và Tòa
án thương mại quốc tế (CITI) đảm nhiệm; tại châu âu, ủy ban châu âu sẽ
tiến hành điều tra.
Nhìn chung, việc điều tra đều liên quan đến chi phí sản xuất, giá bán sản
phẩm tại thị trường nước xuất khẩu, giá trị thông thường của hàng hoá,
mức độ tổn thất tiềm năng của ngành sản xuất… để có thể đưa ra các
mức thuế phù hợp. Thuế chống bán phá giá sẽ làm cho giá hàng hoá tăng
lên và bảo vệ các nhà sản xuất nội địa.
Thuế chống bán phá giá
Thuế chống phá giá được ra đời từ những năm đầu của thế kỷ 20, trước
hết tại Canada (1904), sau đó đến New Zealand (1905), Australia (1906),
Mỹ (1914). Thuế chống bán phá giá là loại thuế đặc biệt đánh vào hàng
nhập khẩu, khi một doanh nghiệp sản xuất bị nhận định là đã bán phá giá.
Về bản chất, thuế chống bán phá giá là khoản thuế bổ sung đánh vào
hàng nhập khẩu, nhằm triệt tiêu tác dụng hay ngăn ngừa việc bán phá giá
- đối với sản phẩm đó (điều VI.2 của Hiệp định GATT). Mục tiêu chính
của thuế chống bán phá giá là nhằm vô hiệu hóa việc bán phá giá, bù đắp
những tổn thất do bán phá giá và cạnh tranh không lành mạnh gây ra cho
các doanh nghiệp của nước nhập khẩu hàng bán phá giá.
Chống bán phá giá (anti-dumping) là một trong các công cụ bảo hộ được
coi trọng và sử dụng nhiều nhất. WTO cho phép các nước thành viên
được áp đặt các biện pháp chống bán phá giá trong khuôn khổ pháp luật
của mình. Tuy nhiên, các nước đang phát triển vẫn thường phản đối điều
này, đặc biệt là phản đối một số quốc gia thường sử dụng các biện pháp
chống bán phá giá vào mục đích bảo hộ ngành công nghiệp nội địa. Từ đó,
nhiều chuyên gia kinh tế cho rằng, chính sách cạnh tranh có thể là công cụ
tốt hơn để giải quyết các trường hợp phá giá với điều kiện tất cả các
nước thành viên của WTO sẵn sàng theo đuổi những chính sách cạnh
tranh có hiệu quả. Và cho tới khi điều này xảy ra, các quy tắc về chống
phá giá chỉ tạo nên một cơ chế pháp lý hiệu quả chống lại cạnh tranh bất
chính nếu nó hợp pháp và công bằng, nhằm giải quyết những lo ngại do
cộng đồng thương mại đưa ra.
IV. VỤ KIỆN - CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ LIÊN QUAN TỚI VIỆT
NAM
Vụ kiện chống bán phá giá cá da trơn từ Việt nam
Bên khởi kiện: Hiệp hội các chủ trại cá da trơn Mỹ (Catfish Farmers of
America - CFA).
Bên bị kiện: Các nhà sản xuất và chế biến hải sản Việt nam. Đại diện:
Hiệp hội chế biến và xuất khẩu thuỷ sản Việt nam – VASEP.
Nội dung vụ kiện:
8|Page
Võ Đình Huấn
- Võ Đình Huấn
Page |9
Việt nam bắt đầu xuất khẩu cá tra, cá basa (phía Mỹ gọi là cá da trơn –
catfish) sang Mỹ từ năm 1996, và đến năm 2001 thì sản lượng xuất khẩu
đạt 9 triệu kg, chiếm gần 2% tổng sản lượng cá da trơn tại Mỹ.
Ngày 28 tháng 6 năm 2002, CFA và một số các công ty chế biến cá da trơn
tại Mỹ đệ đơn kiện lên Department of commerce (DOC) yêu cầu mở điều
tra chống bán phá giá cá da trơn từ Việt nam với lý do là các mặt hàng này
được nhập vào Mỹ dưới giá hợp lý, đe doạ ngành sản xuất nội địa Mỹ và
qua sự cạnh tranh bất chính này đã chiếm 20% thị trường của Mỹ.
Ngày 18 tháng 7 năm 2002, DOC bắt đầu tiền hành các thủ tục điều tra và
tiến hành các giai đoạn công bố, tập hợp ý kiến các bên CFA và VASEP.
Ngày 8 tháng 11 năm 2002, DOC thông báo quyết định coi Việt nam là
nước có nền kinh tế phi thị trường (NME).
Sau khi phản đối không thành quyết định bất lợi này, tháng 12 năm 2002,
VASEP chính thức đề nghị DOC sử dụng Bangladesh là nước thứ ba để
tính các chi phí sản xuất trong 5 nước được DOC đề xuất là Bangladesh,
Ấn độ, Guinea, Kenya và Pakistan. Sở dĩ VASEP chọn Bangladesh là vì
quốc gia này gần với Việt nam về một số yếu tố như mức thu nhập quốc
dân tính theo đầu người (380 USD/người), cùng nằm ở châu thổ các dòng
sông lớn thuận tiện cho việc nuôi cá nước ngọt tương tự như catfish.
Ngày 27 tháng 1 năm 2003, DOC đưa ra phán quyết sơ bộ là các công ty
Việt nam có hành vi bán phá giá cá tra tại Mỹ và ấn định mức thuế chống
phá giá từ 37.94% đến 61,88 % cho các công ty này, và một mức chung
63,88% cho toàn Việt nam. Ngay sau đó, VASEP đã phản đối và nêu lên
những sai sót, bất hợp lý trong quyết định này. Tháng 3 năm 2003, DOC đã
quyết định sửa lại mức thuế chống bán phá giá áp dụng đối với các công
ty tham gia vụ kiện (chẳng hạn như từ 61,88% xuống 31,45% cho Agifish,
từ 53,96% xuống 38,09% cho Navisfishco) và giữ nguyên mức 63,88% cho
các công ty không tham gia.
- Sau phán quyết cuối cùng này của DOC, kết quả của vụ kiện chỉ còn tuỳ
thuộc vào phán quyết của ITC về vấn đề thiệt hại hại. Ngày 24 tháng 7
năm 2003, ITC đưa ra phán quyết cuối cùng, khẳng định các doanh nghiệp
Việt nam đã bán với giá thấp hơn giá thành và gây tổn hại cho ngành sản
xuất của Mỹ, do đó ấn định mức thuế chống bán phá giá từ 36,84 đến
63,88%.
Bài học rút ra:
Sự thất bại này, Việt nam rút ra được nhiều bài học kinh nghiệm. Các
doanh nghiệp Việt nam đã phải trả 469 USD/giờ cho một văn phòng luật
sư tại Washington để bảo vệ quyền lợi cho mình, trong khi thu nhập của
một người dân nuôi cá tra, basa ở đồng bằng sông Cửu Long chưa tới 35
USD/tháng. Kinh phí chi cho vụ kiện tổng cộng là 600.000 USD.
Rất nhiều doanh nghiệp Việt nam phàn nàn về sự bất công trong vụ kiện.
Một điều rõ ràng là rất nhiều người, cả Việt nam và Mỹ, cho rằng phán
quyết về vụ cá da trơn là không công bằng, chỉ đem lại lợi ích cho một số
công ty Mỹ và gây thiệt hại cho những người nông dân nghèo vùng đồng
bằng sông Cửu long. Tuy nhiên việc tập trung vào khía cạnh công bằng
hay không công bằng của vụ tranh chấp đòi hỏi Việt nam phải xem xét
một vấn đề lớn hơn, đó là: Liệu bằng cách nào Việt nam có thể đối phó
với những vụ kiện tương tự trong tương lai một cách hiệu quả nhất. Cần
phải thừa nhận một thực tế là sẽ tiếp tục có những vụ kiện chống bán
phá giá và đây chưa phải là vụ cuối cùng. Vụ kiện cá da trơn chỉ là một
trong số 276 vụ kiện chống bán phá giá trên toàn thế giới năm 2002.
Vụ kiện bán phá giá tôm
0h sáng 1/1/2004, Liên minh tôm miền Nam (SSA) đã đệ đơn lên Bộ
Thương mại Mỹ (DOC) và Uỷ ban thương mại Quốc tế (USITC) của
nước này để kiện 6 nước, trong đó có Việt Nam, bán phá giá tôm vào thị
trường Mỹ.
10 | P a g e
Võ Đình Huấn
- Võ Đình Huấn
P a g e | 11
5 nước khác cũng bị kiện gồm Thái Lan, Trung Quốc, Ấn Độ, Ecuador và
Brazil.
"Ngành công nghiệp tôm của Mỹ đang trong cơn nguy khốn do bị cạnh
tranh không công bằng bởi hàng nhập khẩu”, bà Deborah Regan, Phát ngôn
viên của SSA nói với AFP.
Theo bên nguyên, Chính phủ Mỹ cần đánh thuế thật cao với các mức từ
30 đến trên 200% đối với tôm nhập khẩu từ 6 nước trên với lý do “các
nước này đã bán tôm vào Mỹ thấp hơn cả giá bán tại thị trường nội địa,
tức là bán phá giá".
Theo phân tích của bà Regan, việc dư thừa sản lượng tôm trên thế giới
khiến lượng hàng xuất vào Mỹ tăng mạnh, gây khó khăn cho hoạt động
sản xuất kinh doanh ngành công nghiệp này, đồng thời làm trầm trọng
nạn thất nghiệp.
Ủng hộ lập luận của SSA, Thị trưởng bang Louisiana, Mary Landrieu nói:
“Năm vừa qua, tôm là mặt hàng tiêu dùng bán chạy nhất tại Mỹ với tổng
lượng nhập khẩu lên tới 5-6 tỷ USD/năm, kéo theo giá trị sản xuất nội địa
giảm từ 1,2 tỷ USD xuống còn 560 tỷ USD. Thế nhưng, tự do thương mại
cần phản thật công bằng...”.
Theo số liệu của DOC, năm 2002, 6 nước bị kiện bán phá giá tôm đã sản
xuất khoảng 2 tỷ pound tôm (tương đương 900 triệu kg), gấp đôi so với
năm 1990. SSA đề xuất, để giảm lượng xuất, thuế nhập khẩu tôm sẽ
được nâng lên 40-230% đối với Brazil, 119-267% đối với Trung Quốc,
104-107% đối với Ecuador, 102-130% đối với Ấn Độ, 57% đối với Thái
Lan và 30-99% đối với Việt Nam.
V. VỤ KIỆN CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ TRÊN THẾ GIỚI
Thổ Nhĩ Kỳ — Thuế chống bán phá giá đối với ống nối bằng sắt,
thép
- Nguyên đơn: Brazil
Bị đơn: Thổ Nhĩ Kỳ
Các bên thứ ba:
Các hiệp định Hiệp định ADA (Điều
liên quan (được VI của GATT 1994):
đưa ra trong yêu Điều 1, 3, 5, 6, 2, 12,
cầu tham vấn) 15; GATT 1994: Điều
VI
Ngày nhận được 09 tháng 10 năm 2000
yêu cầu tham vấn:
Bản
tóm tắt cập nhật về vụ kiện
Do Brazil khởi kiện.
Ngày 9 tháng 10 năm 2000, Brazil đã yêu cầu tham vấn với Thổ Nhĩ
Kỳ liên quan đến thuế chống bán phá giá đối với ống nối bằng sắt,
thép nhập khẩu từ Brazil áp đặt theo Thông báo Số 2000/3 (được
công bố trong Công báo của Thổ Nhĩ Kỳ ngày 26 tháng 04 năm 2000).
Brazil cho rằng Thổ Nhĩ Kỳ đã không đảm bảo những thông báo thích
hợp trong vụ việc này, rằng việc thiết lập các tình tiết thực tế của
nước này là không thích hợp, và đánh giá những tình tiết này không
công bằng và khách quan, đặc biệt trong:
* việc khởi xướng điều tra;
* việc tiến hành điều tra, bao gồm việc đánh giá, kết luận và ra
phán quyết về hành vi bán phá giá và thiệt hại;
* việc đánh giá, kết luận và ra phán quyết về mối quan hệ nhân
quả giữa hành vi bán phá giá và thiệt hại;
* việc áp đặt mức thuế chống bán phá giá.
12 | P a g e
Võ Đình Huấn
- Võ Đình Huấn
P a g e | 13
Brazil cho rằng Thổ Nhĩ Kỳ đã hành động không nhất quán với Điều
VI của GATT 1994 và các Điều 2, 3, 5, 6, 12 và 15 của Hiệp định
Chống bán phá giá.
Trinidad và Tobago — Biện pháp chống bán phá giá tạm thời đối với
Mỳ ống và Mỳ sợi nhập khẩu từ Costa Rica
Nguyên đơn: Costa Rica
Bị đơn: Trinidad và Tobago
Các bên thứ ba:
Các hiệp định Hiệp định ADA
liên quan (được (Điều VI của
đưa ra trong yêu GATT 1994):
cầu tham vấn) Điều 1, Phụ lục I,
Phụ lục II, 3, 5, 6,
2, 10,12, 18
Ngày nhận được 17 tháng 01 năm
yêu cầu tham vấn: 2000
Bản tóm tắt được cập nhật ngày 24 tháng 02 năm 2010
Có yêu cầu tham vấn – không thành lập Ban hội thẩm, không thông
báo giải quyết vụ kiện
Do Costa Rica khởi kiện.
Ngày 17 tháng 01 năm 2000, Costa Rica đã yêu cầu tham vấn với
Trinidad và Tobago liên quan đến Thông báo Luật pháp Số 237 của
Bộ Thương mại và Công nghiệp Trinidad và Tobago quyết định áp
đặt các mức thuế chống bán phá giá tạm thời với mỳ ống và mỳ sợi
nhập khẩu từ Costa Rica, các hành động trước quyết định đó (xem
- thêm WT/DS185) cũng như Đạo luật Thuế chống bán phá giá và thuế
đối kháng năm 1992, được sửa đổi bởi Đạo luật Thuế chống bán phá
giá và thuế đối kháng năm 1995 và các Quy định về Thuế chống bán
phá giá và thuế đối kháng năm 1996. Costa Rica khiếu nại rằng
những biện pháp này không nhất quán đặc biệt là với một số đoạn
trong các Điều 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 10, 12, 18 cũng như Phụ lục I và II
của Hiệp định Chống bán phá giá.
Thái Lan – Thuế chống bán phá giá với thép phi hợp kim dạng góc,
khối và rầm chữ H nhập khẩu từ Ba Lan
Bên thưa kiện: Ba Lan
Bên bị đơn: Thái Lan
Các bên thứ ba: Cộng đồng Châu Âu,
Nhật Bản, Hoa Kỳ
Ngày nhận được yêu 06 tháng 04 năm 1998
cầu tham vấn:
Ngày lưu hành báo cáo 28 tháng 9 năm 2000
của Ban hội thẩm
Ngày lưu hành báo cáo 12 tháng 3 năm 2001
của bên kháng án
Bản tóm tắt cập nhật về vụ kiện
Bản tóm tắt được cập nhật ngày 24 tháng 02 năm 2010
Báo cáo được thông qua của Cơ quan Phúc thẩm và Ban Hội thẩm
Do Ba Lan khởi kiện.
Vào ngày 6 tháng 4 năm 1998, Ba Lan yêu cầu tham vấn với Thái Lan
liên quan đến việc áp đặt thuế chống bán phá giá cuối cùng với thép
phi hợp kim dạng góc, khối và rầm chữ H. Ba Lan khẳng định rằng
các mức thuế chống bán phá giá tạm thời do Thái Lan áp đặt vào
ngày 27 tháng 12 năm 1996 và mức thuế chống bán phá giá cuối cùng
14 | P a g e
Võ Đình Huấn
- Võ Đình Huấn
P a g e | 15
bằng 27,79% giá CIF của những sản phẩm này, do bất cứ nhà sản
xuất hay xuất khẩu Ba Lan nào sản xuất hay xuất khẩu, sẽ được áp
dụng từ ngày 26 tháng 5 năm 1997. Ba Lan cũng khẳng định thêm
rằng Thái Lan đã từ chối hai yêu cầu của Ba Lan trong việc công khai
các dữ liệu. Ba Lan cho rằng những hành động của Thái Lan vi phạm
Điều 2, 3, 5 và 6 của Hiệp định Chống bán phá giá.
Vào ngày 13 tháng 10 năm 1999, Ba Lan yêu cầu thành lập Ban hội
thẩm. Tại cuộc họp vào ngày 27 tháng 10 năm 1999, Cơ quan Giải
quyết tranh chấp đã trì hoãn việc thành lập ban hội thẩm. Sau yêu
cầu lần thứ hai của Ba Lan, Cơ quan Giải quyết tranh chấp thành lập
ban hội thẩm tại phiên họp ngày 19 tháng 11 năm 1999. Cộng đồng
Châu Âu, Nhật Bản và Hoa Kỳ bảo lưu các quyền của bên thứ ba.
Vào ngày 20 tháng 12 năm 1999, Ban hội thẩm được thành lập. Báo
cáo được ban hành tới các thành viên vào ngày 28 tháng 12 năm 2000.
Ban hội thẩm kết luận rằng:
Ba Lan đã không chứng minh được rằng Thái Lan đã thực hiện không
nhất quán với những nghĩa vụ đã cam kết theo Điều 2 Hiệp định
Chống bán phá giá hay Điều VI GATT 1994 khi tính toán lợi nhuận
trong giá thông thường tính toán.
Việc Thái Lan áp đặt biện pháp chống bán phá giá cuối cùng với mặt
hàng rầm chữ H nhập khẩu từ Ba Lan là không nhất quán với Điều 3
của Hiệp định Chống bán phá gián, cụ thể là:
Không nhất quán với câu thứ hai Điều 3.2 và Điều 3.1: nhà chức
trách Thái Lan không xem xét ảnh hưởng của giá hàng nhập khẩu bán
phá giá dựa trên “việc xác minh khách quan” “các chứng cứ tích cực”
trên cơ sở thực tế được đưa ra;
Không nhất quán với Điều 3.4 và 3.1: cơ quan điều tra Thái Lan đã
không xem xét các nhân tố được nêu ở Điều 3.4, và không đưa ra
những giải thích cần thiết về cách thức xác định thiệt hại trên cơ sở
“đánh giá khách quan hoặc không thiên lệch” hay “kiểm tra khách
quan” “các chứng cứ có lợi” dựa trên cơ sở thực tế được đưa ra; và
Không nhất quán với Điều 3.5 và 3.1: nhà chức trách Thái Lan đưa ra
phán quyết về mối quan hệ nhân quả giữa hàng nhập khẩu phá giá và
bất cứ sự thiệt hại có thể xảy ra dựa trên cơ sở (a) những kết luận
về ảnh hưởng của giá hàng nhập khẩu bán phá giá, mà theo Ban hội
- thẩm những kết luận này không nhất quán với câu thứ hai của Điều
3.2 và Điều 3.1; và (b) những kết luận về thiệt hại, mà theo Ban hội
thẩm những kết luận này không nhất quán với Điều 3.4 và 3.1.
Theo Điều 3.8 của Quy tắc Giải quyết tranh chấp, trong trường hợp
có sự vi phạm các nghĩa vụ cam kết trong các hiệp định, sự vi phạm
này được coi là chứng cứ đầy đủ cho hành vi gây thiệt hại tới các lợi
ích có được theo các hiệp định đó. Do vậy, khi Thái Lan hành động
không nhất quán với các quy định của Hiệp định Chống bán phá giá,
nước này đã gây thiệt hại tới những lợi ích mà Ba Lan có thể có được
theo quy định của Hiệp định này.
Vào ngày 23 tháng 10 năm 2000, Thái Lan thông báo với Cơ quan Giải
quyết tranh chấp về quyết định kháng án một số vấn đề về luật nêu
trong Báo cáo của Ban hội thẩm và các cách diễn giải luật do Ban hội
thẩm đưa ra. Cơ quan Phúc thẩm cũng lưu hành báo cáo của mình vào
ngày 12 tháng 3 năm 2001. Báo cáo nêu:
Cơ quan Phúc thẩm đồng tình với kết luận của Ban hội thẩm về
những khiếu nại theo Điều 2, 3 và 5 của Hiệp định Chống bán phá
giá, yêu cầu thành lập ban hội thẩm của Ba Lan trong trường hợp này
tuân thủ Điều 6.2 của Quy tắc Giải quyết tranh chấp;
Cơ quan Phúc thẩm bác bỏ kết luận của Ban Hội thảo rằng Hiệp
định Chống bán phá giá yêu cầu một ban hội thẩm khi xem xét lại
quyết định áp dụng thuế chống bán phá giá giá chỉ được xem xét các
thực tế, chứng cứ và lập luận mà các công ty Ba Lan đã biết hoặc đã
được thông báo vào thời điểm có kết luận cuối cùng về việc bán phá
giá. Cơ quan Phúc thẩm cho rằng lập luận nói trên của Ban Hội thẩm
là không có căn cứ dù là trong Điều 3.1 Hiệp định (quy định về nghĩa
vụ của các thành viên trong việc ra kết luận về thiệt hại) cũng như
trong Điều 17.6 Hiệp định (quy định về cách thức xem xét và giải
quyết tranh chấp của Ban Hội thẩm).
Mặc dù đã thay đổi cách lập luận của Ban hội thẩm, nhưng điều này
không ảnh hưởng tới những kết luận chính của Ban hội thẩm về
hành vi vi phạm;
Đồng tình với kết luận của Ban hội thẩm theo Điều 3.4 của Hiệp
định Chống bán phá giá. Cơ quan Phúc thẩm đồng ý với Ban hội
thẩm rằng Điều 3.4 quy định nghĩa vụ phải đánh giá tất cả các nhân
tố được nêu trong Điều đó;
16 | P a g e
Võ Đình Huấn
- Võ Đình Huấn
P a g e | 17
Kết luận rằng Ban hội thẩm không hề sai sót trong việc áp đặt
nghĩa vụ chứng minh, hoặc áp dụng tiêu chuẩn rà soát theo Điều
17.6(i) của Hiệp định Chống bán phá giá.
Tại cuộc họp ngày 5 tháng 4 năm 2001, Cơ quan Giải quyết tranh
chấp đã thông qua bản báo cáo của Cơ quan Phúc thẩm và báo cáo đã
sửa đổi của Ban hội thẩm.
Tình trạng thực thi các báo cáo đã thông qua
Thái Lan thông báo với Cơ quan Giải quyết tranh chấp rằng nước
này đang trong quá trình thực hiện khuyến nghị của Cơ quan Giải
quyết tranh chấp và cần một khoảng thời gian hợp lý để thực hiện.
Ba Lan nhắc lại rằng để thực hiện các khuyến nghị của Cơ quan
Giải quyết tranh chấp, Thái Lan cần phải thu hồi lại các thuế hiện
hành. Nếu không, Ba Lan sẽ áp dụng Điều 21.5 của Quy tắc Giải
quyết tranh chấp. Ba Lan đã sẵn sàng tham gia tham vấn với Thái Lan
về một khoảng thời gian hợp lý cho việc thực hiện. Ngày 21 tháng 5
năm 2001, các bên liên quan thông báo với Cơ quan Giải quyết tranh
chấp rằng họ đã thỏa thuận được khoảng thời gian hợp lý là 6 tháng
và 15 ngày và do vậy thời hạn thực hiện sẽ kết thúc vào ngày 20
tháng 10 năm 2001.
Tại cuộc họp của Cơ quan Giải quyết tranh chấp ngày 18 tháng 12
năm 2001, Thái Lan thông báo rằng nước này đã thực hiện đầy đủ
khuyến nghị của Cơ quan Giải quyết tranh chấp. Tuy nhiên Ba Lan
không chấp nhận cách Thái Lan thực hiện các khuyến nghị của Cơ
quan Giải quyết tranh chấp vì theo Ba Lan, các biện pháp đang bị
điều tra cần được sửa đổi hoặc bãi bỏ. Theo quan điểm của Ba Lan,
Thái Lan chỉ mới thay đổi lý do áp dụng các biện pháp. Ba Lan giữ
nguyên quyền của mình theo Điều 21. 5 của Quy tắc Giải quyết tranh
chấp.
Ngày 18 tháng 12 năm 2001, Thái Lan và Ba Lan đã thoả thuận sơ bộ
về cách thức áp dụng Điều 21 và 22 của Quy tắc Giải quyết tranh
chấp. Theo thỏa thuận này, trong trường hợp áp dụng Điều 21.5 và
22 của Quy tắc Giải quyết tranh chấp, Ba Lan đồng ý thực hiện đầy
đủ Điều 21.5 trước khi áp dụng Điều 22. Ngày 21 tháng 1 năm 2002,
các bên thông báo với Cơ quan Giải quyết tranh chấp về việc hai bên
đã đạt được thỏa thuận rằng việc thực hiện các khuyến nghị của Cơ
- quan Giải quyết tranh chấp trong vụ kiện này sẽ không còn trong
chương trình nghị sự của Cơ quan Giải quyết tranh chấp.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Giáo trình kinh tế quốc tế - Trường DHKT-TP.HCM
2.Giáo trình kinh tế quốc tế - Trường DH Thương mại
3.Van den Bossche, Peter (2005). The Law and Policy of the World Trade
Organization. Cambridge, UK: Cambridge University
4. http://chongbanphagia.vn/
5. http://www.vca.gov.vn
6. http://thongtinphapluatdansu.wordpress.com
7.Và một số tài liệu khác
18 | P a g e
Võ Đình Huấn
nguon tai.lieu . vn