Xem mẫu

  1. Bài tập điều kiện chuyên đề Ngữ nghĩa học – Nguyễn Thị Hằng Nga- cao học K20 ĐHSPHN Bài tập điều kiện: chuyên đề ngữ nghĩa học Đề bài: Trình bày hiểu biết về hiện tượng chuyển nghĩa . Chọn một văn bản cụ thể để phân tích và chứng minh rằng: các từ ngữ thuộc cùng một trường nghĩa có xu hứng chuyển nghĩa gióng nhau. Bài làm Hiện tượng chuyển nghĩa là hiện tượng thường gặp trong hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ, đặc biệt là trong quá trình sáng tác văn chương. Trước khi nói đến hiện tượng chuyển nghĩa chúng ta cần phải bàn đến một số vấn đề quan trọng đó là : Thế nào là nghĩa của từ? và sự thay đổi về nghĩa ngay trong cơ cấu nghĩa của từ Phần I Nghĩa của từ 1 Lưỡng phân ngôn ngữ, ta nhận ra hai mặt của nó: mặt biểu hiện (âm thanh) và mặt được biểu hiện (nội dung). Nghĩa của từ thuộc về mặt thứ hai Vì dụ: Từ CÂY trong tiếng Việt có vỏ ngữ âm như đã đọc lên ([kej1]), và từ này có nội dung, có nghĩa của nó. 1.1 Để trả lời câu hỏi chính "Nghĩa của từ là gì?", trước hết ta phải trở lại với bản chất tín hiệu của từ. Từ là tín hiệu, nó phải "nói lên", phải đại diện cho, phải được người sử dụng quy chiếu về một cái gì đó. 1.2 Khi một người nghe hoặc nói một từ nào đó, mà anh ta quy chiếu, gắn vào đúng sự vật có tên gọi là từ đó như cả cộng đồng xã hội vẫn gọi; đồng thời, ít nhiều anh ta cũng biết được những đặc trưng cơ bản nhất của sự vật đó, và anh ta sử dụng từ đó trong giao tiếp đúng với các mẹo luật mà ngôn ngữ có từ đó cho phép; ta nói rằng anh ta đã hiểu nghĩa của từ đó. Ví dụ: Một người Việt hoặc không phải là người Việt, nói hoặc nghe một từ, như CÂY chẳng hạn, mà anh ta có thể: Quy chiếu, gắn được từ "cây"vào mọi cái cây bất kì trong thực tại đời • sống; 1
  2. Bài tập điều kiện chuyên đề Ngữ nghĩa học – Nguyễn Thị Hằng Nga- cao học K20 ĐHSPHN Ít nhiều cũng biết được đại khái như: cây là loài thực vật mà phần • thân, lá đã phân biệt rõ, ví dụ như: cây mía, cây tre,... Dùng từ "cây" trong giao tiếp, phát ngôn,... đúng với quy tắc ngữ pháp • tiếng Việt. Ta nói được rằng: Anh ta hiểu nghĩa của từ CÂY trong tiếng Việt. Đến đây, có thể phát biểu vắn tắt lại như sau: Nói chung, nghĩa của từ là những liên hệ được xác lập trong nhận thức của chúng ta giữa những cái mà nó (từ) chỉ ra (những cái mà nó làm tín hiệu cho). 2 Câu hỏi tiếp theo là: Nghĩa của từ tồn tại ở đâu? 2.1 Ta đã thừa nhận và chứng minh bản chất tín hiệu của từ, rằng nó có hai mặt: mặt hình thức vật chất âm thanh và mặt nội dung ý nghĩa. Hai mặt này gắn bó với nhau như hai mặt của một tờ giấy, nếu không có mặt này thì cũng không có mặt kia. Vậy nghĩa của từ tồn tại trong từ, nói rộng ra là trong hệ thống ngôn ngữ. Nó là cái phần nửa làm cho ngôn ngữ nói chung và từ nói riêng, trở thành những thực thể vật chất-tính thần. 2.2 Nghĩa của từ không tồn tại trong ý thức, trong bộ óc của con người. Trong ý thức, trong tư duy của con người chỉ có những hoạt động nhận thức, hoạt động tư duy,... mà thôi. Điều này ngụ ý rằng: Trong ý thức, trong bộ óc trí tuệ của con người chỉ tồn tại sự hiểu biết về nghĩa của từ chứ không phải là nghĩa của từ. 2.3Từ những điều trên đây, suy tiếp ra rằng những lời trình bày, giải thích trong từ điển, cái mà ta vẫn quen gọi là của từ trong từ điển, thực chất là những lời trình bày tương đối đồng hình với sự hiểu biết của ta về nghĩa của từ mà thôi. 3. Từ có liên hệ với nhiều nhân tố, nhiều hiện tượng. Bởi thế nghĩa của từ cũng không phải chỉ có một thành phần, một kiểu loại. Khi nói về nghĩa của từ, người ta thường phân biệt các thành phần nghĩa sau đây: 3.1. Nghĩa biểu vật (denotative meaning): Là liên hệ giữa từ với sự vật (hoặc hiện tượng, thuộc tính, hành động,...) mà nó chỉ ra. Bản thân sự vật, hiện tượng, thuộc tính, hành động,... đó, người ta gọi là biểu vật hay cái biểu vật (denotat). Biểu vật có thể hiện thực hoặc phi hiện thực, hữu hình hay vô hình, có bản chất vật chất hoặc phi vật chất. Ví dụ: đất, trời, mưa, nắng, nóng, lạnh, ma, quỷ, thánh, thàn, thiên đường, địa ngục,... 2
  3. Bài tập điều kiện chuyên đề Ngữ nghĩa học – Nguyễn Thị Hằng Nga- cao học K20 ĐHSPHN 3.2. Nghĩa biểu niệm (significative meaning): Là liên hệ giữa từ với ý (hoặc ý nghĩa, ý niệm – signification – nếu chúng ta không cần phân biệt nghiêm ngặt mấy tên gọi này). Cái ý đó người ta gọi là cái biểu niệm hoặc biểu niệm (sự phản ánh các thuộc tính của biểu vật vào trong ý thức của con người). 3.3. Ngoài hai thành phần nghĩa trên đây, khi xác định nghĩa của từ, người ta còn phân biệt hai thành phần nghĩa nữa. Đó là nghĩa ngữ dụng và nghĩa cấu trúc. Nghĩa ngữ dụng (pragmatical meaning), còn được gọi là nghĩa biểu thái, nghĩa hàm chỉ (connotative meaning), là mối liên hệ giữa từ với thái độ chủ quan, cảm xúc của người nói. Nghĩa cấu trúc (structural meaning) là mối quan hệ giữa từ với các từ khác trong hệ thống từ vựng. Quan hệ giữa từ này với từ khác thể hiện trên hai trục: trục đối vị (paradigmatical axis) và trục ngữ đoạn (syntagmatical axis). Quan hệ trên trục đối vị cho ta xác định được giá trị của từ, khu biệt từ này với từ khác, còn quan hệ trên trục ngữ đoạn cho ta xác định được ngữ trị (valence) – khả năng kết hợp – của từ. Thật ra, những phân biệt như trên là cần thiết và hợp lí, nhưng không phải các thành phần đó hiện diện trong mỗi từ bao giờ cũng đồng đều và rõ ràng như nhau. Vì thế, trong từ vựng-ngữ nghĩa học, nhiều khi người ta chỉ nhắc đến nghĩa ngữ dụng, nghĩa cấu trúc, thậm chí cả nghĩa biểu vật nữa, nhưng những xác nhận về sự tồn tại của chúng hơn là phân tích, chứng minh cho thật minh bạch. 4. Đối với từ vựng-ngữ nghĩa học, cái quan trọng nổi lên hàng đầu là nghĩa biểu niệm. Cần phải hiểu mối liên hệ mà chúng ta nói tới trong quan niệm về nghĩa của từ ở đây chính là mối liên hệ chỉ xuất, mối liên hệ phản ánh, cho nên nghĩa biểu hiện cũng có thể hiểu là sự phản ánh sự vật-biểu vật (đúng hơn là phản ánh các thuộc tính, các đặc trưng của chúng) trong ý thức con người, được tiến hành bằng từ. Trọng tâm chú ý phân tích, miêu tả của từ vựng-ngữ nghĩa học là nghĩa biểu niệm chứ không phải là các thành phần khác (Chúng chỉ được lưu ý trong những trường hợp cần thiết mà thôi). Vì vậy, ở đây khi không thật bắt buộc phải xác định rành mạch về mặt thuật ngữ, thì chúng ta sẽ nói đến nghĩa với nội dung được hiểu là nghĩa biểu niệm cho giản tiện. 3
  4. Bài tập điều kiện chuyên đề Ngữ nghĩa học – Nguyễn Thị Hằng Nga- cao học K20 ĐHSPHN 5. Cần phân biệt nghĩa của từ với khái niệm. Nghĩa và khái niệm gắn bó với nhau rất mật thiết, nưhng nói chung là chúng không trùng nhau. Khái niệm là một kết quả của quá trình nhận thức, phản ánh những đặc trưng chung nhất, khái quát nhất và bản chất nhất của sự vật, hiện tượng. Người ta có được khái niệm chủ yếu là nhờ những khám phá, tìm tòi khoa học. Nội dung của một khái niệm có thể rất rộng, rất sâu, tiệm cận tới chân lí khoa học, và có thể được diễn đạt bằng hàng loạt những ý kiến nhận xét. Mặt khác, rõ ràng là không phải khái niệm nào cũng được phản ánh bằng từ mà nó có thể được biểu hiện bằng hơn một từ. Ví dụ: nước cứng, tổ hợp quỹ đạo, mặt gặt đập liên hợp, công nghệ sinh học[1],... Nghĩa của từ cũng phản ánh những đặc trưng chung, khái quát của sự vật, hiện tượng do con người nhận thức được trong đời sống thực tiễn tự nhiên và xã hội. Tuy nhiên, nó có thể chưa phải là kết quả của nhận thức đã tiệm cận đến chân lí khoa học. Vì thế, sự vật, hiện tượng nào mà càng ít được nghiênc cứu, phám phá thì nhận thức về nó được phản ánh trong nghĩa của từ gọi tên nó càng xa với khái niệm khoa học. Bên cạnh đó, ta thấy rằng, không phải từ nào cũng phản ánh khái niệm (các thán từ và các từ công cụ ngữ pháp chẳng hạn) và trong nghĩa của từ còn có thể hàm chứa cả sự đánh giá về mặt này hay mặt khác, có thể chứa cả cảm xúc và thái độ của con người,... Để tiện so sánh, chúng ta phân tích từ nước của tiếng Việt. Khái niệm khoa học về nước là: Hợp chất của ôxi và hiđrô mà trong thành phần của mỗi phân tử nước có hai nguyên tử hiđrô và mọt nguyên tử ôxi. Nghĩa "nôm" của từ nước có thể được miêu tả dưới dạng từ điển ngắn gọn là: Chất lỏng không màu, không mùi và hầu như không vị, có sẵn trong ao hồ, sông suối,... Miêu tả như thế thật ra là chưa đủ. Rất nhiều thứ, loại (biểu vật) được người Việt quy về loại nước mà chả cần chúng đảm bảo thuộc tính lỏng, còn có nước nhiều hay ít, mùi vị thế nào, thậm chí có nước hay không,... điều đó không quan trọng. Chẳng hạn: nước biển, nước mắm, nước xốt, nước dứa, nước ép hoa quả,... phở nước (đối lập với phở xào) mỡ nước (đối lập với mỡ khổ) 4
  5. Bài tập điều kiện chuyên đề Ngữ nghĩa học – Nguyễn Thị Hằng Nga- cao học K20 ĐHSPHN (gang lỏng – Ví dụ: Đổ nước gang vào khuôn nước gang đúc) nước dãi, nước bọt, nước mắt, nước giải, nước ối… Phân tích như trên đây chứng tỏ rằng nghĩa và khái niệm không đồng nhất. Đó là nói về các từ nói chung. Đối với nhiều thuật ngữ khoa học, sự phân biệt giữa nghĩa và khái niệm không cần đặt ra nữa: chúng đã tiệm cận đến giới hạn của nhau. Phần II Sự thay đổi về nghĩa ngay trong cơ cấu nghĩa của từ 1. Một từ có thể có một hoặc nhiều nghĩa, nhưng đó không phải là những tổ chức lộn xộn. Nếu là một từ nhiều nghĩa (đa nghĩa) thì các nghĩa đó của từ có quan hệ với nhau, được sắp xếp theo những cơ cấu tổ chức nhất định. Trong từng nghĩa của mỗi từ cũng vậy, chúng gốm những thành tố nhỏ hơn, có thể phân tích ra được (dưới đây sẽ gọi là các nghĩa tố – seme) và cũng được sắp xếp theo một tổ chức nào đó. Như vậy, xét cơ cấu nghĩa của từ là ta xác định xem từ đó có bao nhiêu nghĩa, mỗi nghĩa có bao nhiêu thành tố nhỏ hơn, và tất cả chúng được sắp xếp trong quan hệ với nhau như thế nào. 2. Mỗi một nghĩa thường gồm một số nghĩa tố được tổ chức lại. Nghĩa tố được hiểu là một dấu hiệu logic ứng với một thuộc tính chung của sự vật, hiện tượng (biểu vật) được đưa vào nghĩa biểu niệm... Đó cũng chính là "yếu tố ngữ nghĩa chung của các từ thuộc cũng một nhóm từ hoặc riêng cho nghĩa của một từ đối lập với nghĩa của những từ khác trong cùng một nhóm"(1). Ví dụ, một nghĩa của từ chân trong tiếng Việt được phân tích là: bộ phận thân thể động vật (ở phía dưới cùng) để đỡ thân thể đứng yên hoặc vận động dời chỗ. 5
  6. Bài tập điều kiện chuyên đề Ngữ nghĩa học – Nguyễn Thị Hằng Nga- cao học K20 ĐHSPHN Trong nghĩa này, có ba dấu hiệu logic của sự vật ứng với ba thuộc tính chung của nó, đã được đưa vào. Đó là ba nghĩa tố của một nghĩa trong từ chân. Ba nghĩa tố trên đây được phát hiện thông qua sự tập hợp và so sánh với các từ khác: tay, đầu, vai, ngực, bụng, lưng,... Nghĩa tố "bộ phận thân thể động vật" chung cho mọi từ trong nhóm. Hai nghĩa tố còn lại được phát hiện thông qua so sánh với các từ trong nhóm để thấy những khác biệt trong dấu hiệu logic về vị trí, chức năng của sự vật được gọi tên (biểu vật). Ta có thể hình dung một tập hợp các nghĩa tố của nghĩa nghĩa cũng tương tự như một tập hợp các nét khu biệt của một âm vị vậy. Chỉ có điều ở đây, các nghĩa tố nằm trong tương quan giả định lẫn nhau và thuyết minh cho nhau. Chúng quan hệ thứ tự, tôn tri trong tổ chức nghĩa. Ví dụ: Trong nghĩa của từ "chân" vừa phân tích, ta có ba nghĩa tố gọi theo thứ tự là a. b. c. Tuy nhiên, đó không phải là thứ tự thời gian, tuyến tính, mà thứ tự từ cái lớn đến cái nhỏ, từ cái cần yếu nhất đến cái ít cần yếu hơn... Điều này được miêu tả lại trong từ điển như một "phổ" của những lời giải nghĩa vậy. Việc phân tích nghĩa của từ cho đến những thành tố cuối cùng không còn có thể phân tích tiếp tục nữa (tức là phân tích cho hết được các nghĩa tố cần yếu) là một yêu cầu bắt buộc về mặt nguyên tắc. Thế nhưng, trên thực tế, cho tới nay vẫn chưa có được một phương pháp tổng quát đủ mạnh để cho pháp xác định trong số các "dấu hiệu logic" cái nào được coi là nghĩa tố, còn cái nào thì không. Bởi thế, khi phân tích nghĩa tư, có lúc chúng ta buộc phải có những biện luận riêng cho từng nhóm, thậm chí từng từ. 3. Ở điểm 1, chúng ta đã nói rằng một từ có thể đơn nghĩa hoặc đa nghĩa. Tính đa nghĩa của ngôn ngữ ở cấp độ từ thể hiện qua từ đa nghĩa. Quan hệ đa nghĩa là một trong những dạng quan trọng nhất thuộc các kiểu quan hệ ngữ nghĩa trong từ. 3.1. Có thể định nghĩa về từ đa nghĩa như sau: Từ đa nghĩa là những từ có một số nghĩa biểu thị những đặc điểm, thuộc tính khác nhau của một đối tượng, hoặc biểu thị những đối tượng khác nhau của thực tại. Ví dụ: Động từ che trong tiếng Việt có hai nghĩa. Động từ ăn có 12 nghĩa... (Từ điển tiếng Việt. Hà Nội, 1988). Chúng là các từ đa nghĩa. 6
  7. Bài tập điều kiện chuyên đề Ngữ nghĩa học – Nguyễn Thị Hằng Nga- cao học K20 ĐHSPHN Với tư cách là đơn vị định danh, từ đa nghĩa cho ta thấy rằng: Từ có thể di chuyển từ chỗ gọi tên cho đối tượng này sang gọi tên cho đối tượng khác, từ chỗ có nghĩa này, có thể có thêm nghĩa khác: → Đối tượng 1 — Nghĩa 1 Từ → Đối tượng 2 — Nghĩa 2 → (...) → Đối tượng n — Nghĩa n Sự "di chuyển" đó có nguyên nhân ở nhận thức của người bản ngữ và tính chất tiết kiệm trong ngôn ngữ. Hai nhân tố này tác động và ảnh hưởng lẫn nhau đã dẫn đến việc tạo lập từ đa nghĩa của từ vựng. 3.2. Các nghĩa của từ đa nghĩa được xây dựng và tổ chức theo những cách thức, trật tự nhất định. Vì vậy, người ta cũng có thể phân loại chúng. Có nhiều cách phân loại, nhưng thường gặp nhất là những lưỡng phân quan trọng như sau: 3.2.1. Nghĩa gốc – Nghĩa phái sinh Lưỡng phân này dựa vào tiêu chí nguồn gốc của nghĩa. Nghĩa gốc được hiểu là nghĩa đầu tiên hoặc nghĩa có trước, trên cơ sở nghĩa đó mà người ta xây dựng nên nghĩa khác. Ví dụ với từ chân: (1) Bộ phận thân thể động vật ở phía dưới cùng, để đỡ thân thể đứng yên hoặc vận động rời chỗ; (2) Cương vị, phận sự của một người với tư cách là thành viên của một tổ chức (có chân trong ban quản trị). (...) Nghĩa 1 của từ chân ở đây là nghĩa gốc. Từ nghĩa 1 người ta xây dựng nên các nghĩa khác của từ này bằng những con đường, cách thức khác nhau. Nghĩa gốc thường là nghĩa không giải thích được lí do, và có thể được nhận ra một cách độc lập không cần thông qua nghĩa khác. Nghĩa phái sinh là nghĩa được hình thành dựa trên cơ sở nghĩa gốc, và vì vậy chúng thường là nghĩa có lí do, và được nhận ra qua nghĩa gốc của từ. 7
  8. Bài tập điều kiện chuyên đề Ngữ nghĩa học – Nguyễn Thị Hằng Nga- cao học K20 ĐHSPHN Nghĩa 2 của từ chân vừa nêu là một ví dụ về nghĩa phái sinh. 3.2.2. Nghĩa tự do – Nghĩa hạn chế Lưỡng phân này một mặt dựa vào mối liên hệ giữa từ (với tư cách là tên gọi) với đối tượng, mặt khác, là khả năng bộc lộ của nghĩa trong những hoàn cảnh khác nhau mà từ xuất hiện. Nếu một nghĩa được bộc lộ trong mọi hoàn cảnh, không lệ thuộc vào một hoàn cảnh bắt buộc nào, thì nghĩa đó được gọi là nghĩa tự do. Xét từ SẮT trong tiếng Việt, nó có nghĩa: Kim loại – rắn, cứng – màu sáng – tỉ khối 7,88 – nóng chảy ở nhiệt độ 15350C. Nghĩa này là nghĩa tự do vì được bộ lộ trong mọi hoàn cảnh: Giường sắt, Mua sắt, Có công mài sắt có ngày nên kim,... Ngược lại, nếu một nghĩa chỉ được bộc lộ trong một (hoặc vài) hoàn cảnh bắt buộc thì nghĩa đó được gọi là nghĩa hạn chế. Ví dụ: Ngoài nghĩa vừa nêu, từ SẮT còn bộc lộ nghĩa "Nghiêm ngặt, cứng rắn, và buộc phải làm theo" trong hoàn cảnh hạn chế: kỉ luật sắt hoặc bàn tay sắt. Từ mùi với nghĩa "hơi ngửi thấy nói chung" và nghĩa "mùi thiu, ôi, khó chịu (thịt có mùi)" cũng là trường hợp như vậy. 3.2.3. Nghĩa trực tiếp – Nghĩa gián tiếp Hai loại nghĩa này được phân biệt dựa vào mối liên hệ định danh giữa từ với đối tượng. Nếu một nghĩa trực tiếp phản ánh đối tượng, làm cho từ gọi tên sự vật một cách trực tiếp, thì người ta gọi đó là nghĩa trực tiếp (hay còn gọi là nghĩa đen). Ví dụ: Nghĩa thứ nhất của từ chân và từ sắt, như vừa nói ở trên, là những nghĩa trực tiếp. Nếu một nghĩa gián tiếp phản ánh đối tượng, làm cho từ gọi tên sự vật một cách gián tiếp (thường thông qua hình tượng hoặc nét đặc thù của nó), thì người ta bảo nghĩa đó là nghĩa chuyển tiếp (hay còn gọi là nghĩa bóng). 8
  9. Bài tập điều kiện chuyên đề Ngữ nghĩa học – Nguyễn Thị Hằng Nga- cao học K20 ĐHSPHN Chẳng hạn, xét từ bụng trong tiếng Việt. Từ này có một nghĩa là ý nghĩ, tình cảm, tâm lí, ý chí của con người. Nghĩa này là nghĩa chuyển tiếp (nghĩa bóng). Người Việt thường nói: Bụng bảo dạ, Suy bụng ta ra bụng người, Con người tốt bụng,... Trong khi đó, nghĩa trực tiếp của từ bụng phải là "Bộ phận cơ thể người, động vật, trong đó chứa ruột, dạ dày...". Ví dụ: Người ta vẫn nói: Mổ bụng moi gan, Bụng mang dạ chửa, No bụng đói con mắt,... 3.2.4. Nghĩa thường trực – Nghĩa không thường trực Lưỡng phân này dựa vào tiêu chí: Nghĩa đang xét đã nằm trong cơ cấu chung ổn định của nghĩa từ hay chưa. Một nghĩa được coi là nghĩa thường trực, nếu nó đã đi vào cơ cấu chung ổn định của nghĩa từ và được nhận thức một cách ổn định, như nhau trong các hoàn cảnh khác nhau. Ví dụ: Các nghĩa đưa ra xét của các từ chân, bụng, sắt đã nêu bên trên, đều là nghĩa thường trực. Chúng đã nằm trong cơ cấu nghĩa của các từ đó một cách rất ổn định, thường trực. Ngược lại, nếu có một nghĩa bất chợt nảy sinh tại một hoàn cảnh nào đó trong quá trình sử dụng, sáng tạo ngôn ngữ, nó chưa hề đi vào cơ cấu ổn định, vững chắc của nghĩa từ, thì nghĩa đó được gọi là nghĩa không thường trực của từ. Loại nghĩa này cũng còn được gọi là nghĩa ngữ cảnh. Ví dụ: Tên gọi áo trắng chỉ có nghĩa là thầy thuốc hoặc nhân viên y tế nói chung trong những hoàn cảnh nói như sau: Đây tôi sống những tháng ngày nhân hậu nhất Mỗi mai hồng áo trắng đến thăm tôi. (Chế Lan Viên) Trong khi đó, áo trắng trong hoàn cảnh nói sau đây lại không phải vậy: Tôi về xứ Huế chiều mưa Em ơi áo trắng bây giờ ở đâu (Nguyễn Duy) 9
  10. Bài tập điều kiện chuyên đề Ngữ nghĩa học – Nguyễn Thị Hằng Nga- cao học K20 ĐHSPHN Những lưỡng phân trên đây chưa phải là toàn bộ sự phân loại nghĩa của từ, nhưng đó là những lưỡng phân quan trọng. Chúng sẽ được vận dụng như những tiêu chí cần thiết trong khi phân tích để nhận diện, chia tách nghĩa của từ đa nghĩa cho hợp lí. Từ những hiểu biết trên ta đi đến kết luận rằng: Từ là mọt đơn vị mang nghĩa của ngôn ngữ. Từ có nghĩa biểu vật và nghĩa biểu niệm. Trong hoạt động ngôn ngữ, nghĩa của nó được hiện thực hoá, cụ thể hoá và được xác định. Lúc đó, các thành phần nghĩa trong cơ cấu nghĩa của từ sẽ giảm dần tính trừu tượng và khái quát đến mức tổi thiểu để đạt tới tính xác định, tính cụ thể ở mức tối đa. Cơ cấu nghĩa của từ cũng rất phức tạp, chính vì vậy hiện tượng chuyển nghĩa của từ là hiện tượng diễn ra thường xuyên và phổ biến. Phần III Hiện tượng chuyển nghĩa của từ 1. Đây là một hiện tượng thường gặp trong giao tiếp và đặc biệt là trong văn chương. 1.1. Chuyển nghĩa là hiện tượng thay đổi nghĩa của từ => Từ nhiều nghĩa. Trong đó: + Nghĩa gốc: Nghĩa xuất hiện đầu tiên, làm cơ sở hình thành các nghĩa khác. + Nghĩa chuyển: Nghĩa được hình thành trên cơ sở nghĩa gốc - Thông thường, trong câu, từ chỉ có một nghĩa nhất định. Tuy nhiên trong một số trường hợp, từ có thể được hiểu đồng thời theo cả nghĩa gốc lẫn nghĩa chuyển. 1.2. Để xây dựng, phát triển thêm nghĩa của các từ, trong ngôn ngữ có nhiều cách. Tuy nhiên, có hai cách quan trọng nhất thường gặp trong các ngôn ngữ là: chuyển nghĩa ẩn dụ (metaphor) và chuyển nghĩa hoán dụ (metonymy). 1.2.1. Ẩn dụ Ẩn dụ là một phương thức chuyển tên gọi dựa trên sự liên tưởng, so sánh những mặt, những thuộc tính,... giống nhau giữa các đối tượng được gọi tên. Có thể diễn giải định nghĩa này như sau: 10
  11. Bài tập điều kiện chuyên đề Ngữ nghĩa học – Nguyễn Thị Hằng Nga- cao học K20 ĐHSPHN Giả sử ta co từ T với tên gọi cho đối tượng Đ1 (và lẽ đương nhiên, T có nghĩa S1). Khi cần gọi tên cho một đối tượng Đ2 nào đó, mà người ta thấy giữa Đ1 và Đ2 có những đường nét, những mặt nào đó giống nhau, người ta có thể dùng T để gọi tên luôn cho cả Đ2. Lúc này, một nghĩa S2 tương ứng được xác lập trong T. Chúng ta nói rằng ở đây đã diễn ra một phép ẩn dụ. Ví dụ: Từ CÁNH trong tiếng Việt có nhiều nghĩa. Khi định danh cho cánh chim, cánh chuồn chuồn, cánh bướm,... nó có nghĩa là: Bộ phận dùng để bay của chim, dơi, côn trùng; có hình tấm, rộng bản, tạo thành đôi đối xứng ở hai bên thân và có thể khép vào, mở ra. Trên cơ sở so sánh nhiều sự vật khác có hình dạng tương tự (hoặc người Việt liên tưởng và cho là chúng tương tự nhau), người ta đã đã chuyển CÁNH sang gọi tên cho những bộ phận giống hình cánh chim ở một vật: cánh máy bay, cánh quạt, cánh hoa; cánh chong chóng, cánh cửa, ngôi sao năm cánh; kề vai sát cánh đấu tranh, cánh tay, cánh buồn; cánh rừng, cánh đồng, cánh quân,... (những tên gọi về sau này đã khác rất xa so với cánh chim). 1.2.2. Hoán dụ Hoán dụ là một phương thức chuyển tên gọi dựa trên mối liên hệ logic giữa các đối tượng được gọi tên. Định nghĩa này có thể được thuyết minh lại như sau: Giả sử ta có từ T là tên gọi của đối tượng Đ1 và từ này có nghĩa S1. Khi cần gọi tên cho một đối tượng Đ2 mà giữa Đ2 và Đ1 có mối liên hệ logic nào đó (như liên hệ giữa bộ phận với toàn thể, giữa nguyên liệu với sản phẩm tạo thành chẳng hạn) thì người ta có thể dùng T để gọi tên luôn cho cả Đ2. Lúc này từ T được xây dựng thêm, được cấp thêm một nghĩa S2. Người ta bảo như thế là đã có một phép chuyển nghĩa hoán dụ. Ví dụ: Vụng vá vai (áo) tài vá nách (áo) 11
  12. Bài tập điều kiện chuyên đề Ngữ nghĩa học – Nguyễn Thị Hằng Nga- cao học K20 ĐHSPHN Ở đây, tiếng Việt đã lấy bộ phận thân thể để gọi tên bộ phận trang phục có vị trí tương ứng. 1.2.3. Cơ sở để thực hiện các phương thức chuyển nghĩa trong các ngôn ngữ rất đa dạng. Mặc dù vậy, đây cũng chính là điểm gặp nhau nhiều nhất giữa các ngôn ngữ (so sánh từ wing (cái cánh) trong tiếng Anh với từ cánh trong tiếng Việt, hoặc từ kbal (cái đầu) trong tiếng Khmer với từ đầu trong tiếng Việt,... chẳng hạn). Việc miêu tả đầy đủ và tỉ mỉ các cơ sở chuyển nghĩa ấy cần phải được dành cho những khảo sát riêng. 2. Sự chuyển nghĩa của từ tình thái trong phát ngôn Tiếng Việt 2.1. Khác với “từ có thực nghĩa”, những từ được gọi là từ tình thái tuy là bộ phận độc lập với cấu trúc của câu phát ngôn nhưng nghĩa tình thái, nghĩa ngữ dụng của chúng chỉ phát huy tác dụng khi được gắn kết với phát ngôn. Nhưng một phát ngôn thế nào mới được xem là đúng và cái gì quy định hoặc góp phần làm nên điều kiện thực của phát ngôn? Khi tiếp nhận một phát ngôn, điều quan trọng đối với chúng ta là phải hiểu được nội dung của phát ngôn lẫn ngụ ý (nếu có) của người chuyển giao. Các phát ngôn ta nghe khi giao tiếp nhìn chung xuất hiện dưới hình thức câu nghi vấn, câu cầu khiến hoặc câu tường thuật. Hiểu một câu tường thuật, ta phải hiểu được ý khẳng định hoặc ý xác nhận tính hiện thực về điều được nói, hiểu một câu nghi vấn ta phải hiểu cái gì sẽ là câu trả lời cho câu hỏi mà nó biểu thị; và để hiểu một câu mệnh lệnh thì phải hiểu rằng cái gì sẽ biểu thị ý phục tùng yêu cầu đưa ra. Những điều kiện như vậy (điều kiện thật, điều kiện về câu trả lời, điều kiện về sự phục tùng) được gọi chung là điều kiện cần để nghĩa của một phát ngôn được thấu hiểu. “Do vậy nghĩa của câu cần được phân tích trong phạm vi của các điều kiện cần/thỏa đáng và các yếu tố cấu thành câu cần được phân tích dưới góc độ của sự đóng góp của các thành tố tạo nên những điều kiện trên” (Akmajian, 222). Đóng góp vào việc tạo nên những điều kiện cần để một phát ngôn tiếng Việt được thực hiện chức năng của mình trong giao tiếp phải kể đến các từ tình thái hoạt động trong phạm vi khung vị ngữ của phát ngôn. Xem các ví dụ sau: (1) a. Tôi phải về. b. Phải tháo kính trắng ra bỏ vào túi áo, kẻo văng mất đấy. c. Phải hai tiếng nữa xe mình mới về đến nơi. (2) a. Nghỉ một lát nhé. 12
  13. Bài tập điều kiện chuyên đề Ngữ nghĩa học – Nguyễn Thị Hằng Nga- cao học K20 ĐHSPHN b. Cảm ơn nhé. c. (Cô tưởng nói như thế tôi tin cô à?) Còn lâu nhé. a Chỉ qua hai ví dụ về vị từ phải và tiểu từ nhé bên trên, ta cũng có thể hình dung ra những lớp nghĩa tình thái khác nhau mà hai từ này có thể mang đến cho câu phát ngôn. Vấn đề là phải xác định được từ nghĩa gốc ban đầu hoặc từ một nét nghĩa nào đó, những từ tình thái vừa nêu đã có sự chuyển nghĩa hoặc mở rộng nghĩa theo những con đường như thế nào? Trong phạm vi bài viết này, để tìm ra con đường chung của quá trình chuyển nghĩa của từ tình thái trong tiếng Việt, chúng tôi chọn ra hai đại diện cho hai nhóm từ tình thái trong tiếng Việt: phải-đại diện cho nhóm vị từ tình thái (gồm các động từ và phó từ có mang nội dung tình thái), nhé-đại diện cho nhóm tiểu từ tình thái cuối câu (gồm các từ như: à, ư, nhỉ, nhé…). Việc phân tích hai từ tình thái vừa nêu có lẽ sẽ là những căn cứ để chúng ta đi đến kết luận rằng những đơn vị vốn được xem là hư hóa, đặc biệt các tiểu từ cuối, vẫn đang trên đường thực hiện chức năng ngữ nghĩa lẫn ngữ dụng của mình một khi được gắn kết với phát ngôn cụ thể. 2.2 Nếu xem “Nghĩa là kết quả của một quá trình trừu tượng hoá từ những trường hợp sử dụng từ ngữ trong ngôn từ, trong những câu nói cụ thể.” (Cao Xuân Hạo, 54) thì tình thái chính là cách người nói nhìn nhận hoặc đánh giá sự tình được nêu ra trong phát ngôn của mình. Khi một phát ngôn được đưa ra, bản thân phát ngôn đó đã có chứa một dung tình thái nhất định. Chẳng hạn khi một người nói ra câu: “Tôi về.” thì nội dung tình thái của câu đó có thể là một thông báo; một lời chào-thay cho các nghi thức xã giao thông thường; một lời từ chối lời mời ở lại của chủ nhà v.v.. Một câu nói có thể chứa một hoặc nhiều hơn một nội dung tình thái là tùy theo chủ ý của người nói khi đang hướng đến đối tượng giao tiếp cụ thể. Và nội dung tình thái đó sẽ được hiểu chính xác đến mức độ như thế nào là còn tùy theo sự suy diễn của người nghe-căn cứ vào bối cảnh giao tiếp lúc tiếp nhận phát ngôn. Tuy nhiên tình thái của câu trên có thể nói là chỉ mang nội dung trung tính. Nếu như người nói chọn một trong những yếu tố đánh dấu tình thái nào đó (như phải hoặc nhé chẳng hạn) để đưa vào phát ngôn của mình thì tình hình sẽ khác. Nội dung tình thái của câu phát ngôn trong những trường hợp như vậy được xem là có chứa tiêu điểm thông báo cụ thể, thông qua sự xuất hiện của từ tình thái/yếu tố đánh dấu tình thái. Gọi phải hoặc nhé là yếu tố đánh dấu tình thái trong câu, ta đồng thời đề cập đến hai nội dung: chức năng ngữ nghĩa và chức năng ngữ dụng của từ tình thái được phát huy cùng một lúc, một khi chúng được vận dụng vào câu nói. Nói cách khác, người nói hoặc người nghe khi sử dụng hoặc tiếp nhận phát ngôn có chứa từ tình thái đều muốn người cùng cuộc hội thoại lưu ý đến lớp/nội dung tình thái chủ yếu của câu phát ngôn; đồng thời thông qua 13
  14. Bài tập điều kiện chuyên đề Ngữ nghĩa học – Nguyễn Thị Hằng Nga- cao học K20 ĐHSPHN đó, một trong hai nhân vật của cuộc hội thoại lại có chủ ý gây ra hoặc phải chịu sự tác động nào đó của yếu tố đánh dấu này. Và khi có sự vận dụng như vậy, tiêu điểm thông báo (của câu phát ngôn) được đặt trong nội dung ngữ nghĩa-ngữ dụng của đơn vị đang thực hiện chức năng đánh dấu tình thái của câu nói. Nhìn chung, nội dung tình thái mà các yếu tố đánh dấu có thể mang đến cho phát ngôn “… phần lớn đều có liên quan trực tiếp hay gián tiếp đến tính hiện thực, tính tất yếu và tính khả năng, nhưng dưới nhiều sắc thái khác nhau và có nhiều cách biểu hiện khác nhau.” (Cao Xuân Hạo, 50). Phân tích những nội dung tình thái có thể có của phải và nhé là bước tiếp theo để ta có dịp tìm hiểu về “nhiều cách biểu hiện khác nhau” của từ tình thái nói chung và của hai yếu tố đánh dấu tình thái trong câu (có chứa phải hoặc nhé) nói riêng. 2.2.1. Trong quá trình ngữ pháp hóa thực từ có con đường riêng để thực hiện sự chuyển nghĩa, từ những nét nghĩa cụ thể chuyển sang những nét nghĩa trừu tượng hơn hoặc khái quát hóa hơn. Nói cách khác, từ nghĩa thực ban đầu, qua thời gian và qua quá trình sử dụng vào thực tế (trong văn bản hoặc ngôn bản) thì bên cạnh nghĩa từ vựng ban đầu, những nét nghĩa từ vựng/ngữ pháp mới của thực từ sẽ dần dần xuất hiện. Trong khi đó, những đơn vị được xem là có mang nội dung tình thái khi được gắn kết vào câu phát ngôn cụ thể, như phải chẳng hạn, lại tiếp tục quá trình hư hóa bằng cách làm phong phú thêm nội dung ngữ nghĩa lẫn ngữ dụng của mình thông qua việc thực hiện vai trò là một yếu tố ‘động’ khi tham gia vào những ngôn cảnh khác nhau, phục vụ những mục đích/chiến lược giao tiếp khác nhau.Để khẳng định được điều này ta cần lần lượt xem xét những nội dung tình thái mà phải có thể đem đến cho phát ngôn. Trong những phát ngôn thuộc ví dụ (1) để hiểu về tình thái trong câu, ta cần hiểu rằng tính tất yếu, sự bắt buộc, ý yêu cầu, đề nghị hoặc sự cho phép được thể hiện trong mệnh đề, thông qua một số từ ngữ nhất định, đều có liên quan đến khả năng mà một hoạt động hoặc hành động nào đó được/không được phép tiến hành. Và như vậy, tùy theo đối tượng cần/phải/nên tiến hành hành động (là chính người nói hoặc là người cùng hội thoại) thì tình thái của câu phát ngôn, do phải mang đến sẽ mang một, hai hoặc ba nội dung ngữ nghĩa nêu trên. Với sự có mặt của phải trong (1a), nội dung tình thái được mang đến cho phát ngôn dường như có sự hoà quyện giữa nét nghĩa tất yếu và nét nghĩa bắt buộc. Nói là ‘tất yếu’ vì chủ thể (tôi) của hành động (về) không thể làm gì khác, tất yếu là phải làm như vậy, nghĩa là ‘phải về’, những chọn lựa khác mặc nhiên bị sự có mặt của từ tình thái phải gạt bỏ ra ngoài. Còn khi ta nói tình thái được thể hiện qua sự có mặt của phải có liên quan đến nội dung mang tên là ‘bắt buộc’ thì điều đó có nghĩa là xét về mặt trách nhiệm của chủ 14
  15. Bài tập điều kiện chuyên đề Ngữ nghĩa học – Nguyễn Thị Hằng Nga- cao học K20 ĐHSPHN thể hành động (tôi) hoặc với gia đình hoặc với xã hội, chẳng hạn, thì hành động (về) là một bắt buộc, không thể tránh khỏi. Với nghĩa gốc ban đầu là “ở trong điều kiện bắt buộc không thể không làm, nhất thiết không thể khác…” (Từ điển tiếng Việt, 736), khi hoạt động trong những ngôn cảnh khác nhau, việc vận dụng phải cho thấy có những cách đánh giá ở những thang độ khác nhau về sự tình được người nói nêu ra trong mệnh đề. Nếu xem sự có mặt của phải trong (1a) đánh dấu nội dung tình thái mang hàm ý bắt buộc thì trong (1b) nội dung ấy đã có sự chuyển đổi ít nhiều. Thông qua các vị từ biểu thị sự mong muốn hoặc sự bắt buộc mà người nói sẽ hướng đối tượng giao tiếp đến chỗ tự rút ra kết luận (từ phát ngôn được tiếp nhận) rằng mình nên/không nên thực hiện hành động theo yêu cầu. Trường hợp của vị từ phải trong (1b) là một ví dụ. Khả năng tiến hành hành động (tháo kính trắng ra) rất có thể được làm theo yêu cầu vì khi tiếp nhận vị từ này, người nghe được đặt vào một tình thế là cần phải tuân theo lời người nói. Trong những trường hợp như vậy, người nghe có thể suy diễn rằng ngay trong ý bắt buộc của người nói còn bao hàm cả ý mong muốn của người ấy. Để xác định hai nét nghĩa tình thái này có cùng song song tồn tại trong cùng một phát ngôn hay không ta còn phải xét xem chủ thể hành động là ai. Nếu là chính người nói (ngôi thứ nhất số ít hoặc số nhiều: tôi/chúng tôi) thì nét nghĩa ‘bắt buộc’ sẽ là nét nghĩa chính mà vị từ phải có thể mang đến cho phát ngôn bên cạnh nét nghĩa ‘cần thiết phải làm như vậy’. Còn nếu chủ thể hành động là người nghe (ngôi thứ hai số ít hoặc số nhiều: anh/các anh) hoặc là nhân vật được nói đến (ngôi thứ ba số ít hoặc số nhiều: nó/họ) thì hai nét nghĩa tình thái:’bắt buộc’ và ‘mong muốn’ có thể được cùng biểu thị trong phát ngôn, thông qua sự có mặt của phải. Tuy nhiên, nghĩa tình thái của phải không chỉ mở rộng hoặc có sự chuyển đổi về mặt ý nghĩa ở mức độ đơn giản như vậy. Nếu trong loại câu cầu khiến, như trong (1b), phải được dùng để biểu thị sự bắt buộc/mong muốn nhằm đến đích định hướng hành động cần thực hiện (của người nghe) thì trong (1c), nghĩa tình thái của phải (trong loại câu tường thuật) lại có liên quan đến tính tất yếu hoặc tính khả năng mà một hoạt động được nói đến sẽ có điều kiện trở thành hiện thực, theo suy luận hoặc tính toán của người nói. Vì vậy khoảng thời gian được dự kiến (hai tiếng) được xem là khoảng thời gian tất yếu phải trải qua hoặc là khoảng thời gian có thể phải đạt đến để chiếc xe đang chở người nói và người nghe về được đến nhà. Như vậy qua những phân tích về nội dung nghĩa mà phải mang đến cho (1b và 1c) bên trên, có thể nói rằng tùy theo chủ ý của người nói mà nét nghĩa ‘bắt buộc’ (nét nghĩa gốc) của phải đã được mở rộng hoặc chuyển sang hướng biểu thị sự mong muốn của người nói. Lúc ấy sự hoà quyện giữa nét nghĩa ‘bắt buộc’ với nét nghĩa ‘mong muốn’ đã tạo nên một lớp nghĩa tình 15
  16. Bài tập điều kiện chuyên đề Ngữ nghĩa học – Nguyễn Thị Hằng Nga- cao học K20 ĐHSPHN thái mới cho phát ngôn mà vị từ được gắn kết vào (phát ngôn 1b). Và cũng từ nét nghĩa ‘bắt buộc’ ấy, những lớp nghĩa tình thái khác như ‘tất yếu’, ‘khả năng’ cũng lần lượt xuất hiện trong phát ngôn có chứa vị từ phải. Điều kiện nào để một/ những lớp nghĩa tình thái mới xuất hiện? Đó chính là sự phong phú của ngôn cảnh và do yêu cầu của mục đích giao tiếp. Khi mong muốn trở nên quá bức thiết, cần có một người nào đó thực hiện thì mong muốn đó trở thành điều bắt buộc đối với đối tượng cộng tác hội thoại. Khi ấy nét nghĩa bắt buộc trong phát ngôn (1a) trở thành nét nghĩa chính, vượt trội hơn, thậm chí còn làm lu mờ nét nghĩa mong muốn (phát ngôn 1b). Còn khi cho rằng nhận định của mình chỉ mang tính dự đoán, không chắc chắn nhưng cũng rất có thể sẽ trở thành hiện thực thì nét nghĩa tất yếu hoặc nét nghĩa khả năng sẽ trở nên vượt trội hơn hoặc xóa mờ dần nét nghĩa bắt buộc ban đầu (phát ngôn 1c). Do vậy có thể nói rằng quá trình ngữ pháp hóa từ vựng không còn là quy luật vốn dĩ chỉ phổ biến ở những đơn vị được gọi là thực từ. Tham gia vào quá trình ấy còn có sự đóng góp của những đơn vị được xem là yếu tố đánh dấu tình thái của câu phát ngôn, trường hợp của phải là một ví dụ. Tuy nhiên trong khi phải đang trên con đường chuyển nghĩa để đi đến những nội dung nghĩa ngữ pháp hoặc nghĩa tình thái khái quát hơn hoặc trừu tượng hơn (trong phạm vi bài viết này chúng tôi chưa có dịp để trình bày cho đầy đủ) thì một nhóm từ tình thái khác, một đơn vị hoàn toàn độc lập với cấu trúc của câu phát ngôn, lại tiếp tục con đường từ trừu tượng hóa đến trưù tượng hoá ở mức cao hơn nữa hơn nữa những nội dung nghĩa tình thái của mình. Trường hợp của tiểu từ tình thái cuối câu nhé là một ví dụ. 2.2.2 Khi ta nói một câu, trong câu nói của chúng ta có thể đồng thời mang hai ý nghĩa, một là nghĩa ngôn từ (linguistic meaning) và một là ngụ ý của người nói (speaker meaning) (Akmajian, 216). Nghĩa ngôn từ là nghĩa của những câu chữ có sẵn trong câu nói, còn ngụ ý của người nói là một/những điều gì đó mà người tạo phát ngôn muốn nói nhiều hơn những câu chữ có sẵn trong cấu trúc. Và khi thực hiện một hành động nói năng, đôi khi ta muốn ngụ ý về một điều gì đó vượt ra khỏi phạm vi nghĩa nguyên văn và mối quan hệ cú pháp của những từ ngữ có trong câu. Nói cách khác, khi điều ta muốn ngụ ý trong giao tiếp không tương ứng với nghĩa nguyên văn của câu thì khi ấy chúng ta đang thực hiện một hành động nói năng mang nghĩa hàm ẩn. Và nhiệm vụ của người tiếp nhận thông điệp là phải căn cứ vào ngôn cảnh, vào tiền giả định v.v.. của phát ngôn để biết ý định giao tiếp gián tiếp của người nói, để tìm ra lý do vì sao người ấy lại có ngụ ý nhiều hơn những câu chữ phản ánh nội dung vừa được đề cập đến trong phát ngôn của mình. Để giao tiếp đạt được hiệu quả mong đợi, điều này còn phụ thuộc vào kiến thức của người nghe, khả năng cảm nhận hoặc sự suy diễn của người ấy. Không chỉ 16
  17. Bài tập điều kiện chuyên đề Ngữ nghĩa học – Nguyễn Thị Hằng Nga- cao học K20 ĐHSPHN có một phía, người tạo phát ngôn cũng có một phần trách nhiệm về những câu chữ mà mình tạo ra trong bối cảnh giao tiếp lúc đó. Khi có ý tưởng trong đầu, người muốn chuyển giao cần tập hợp những từ ngữ thích hợp trong một quan hệ cấu trúc chặt chẽ cả về cú pháp lẫn ngữ nghĩa. Và khi trở thành một thành viên trong cuộc hội thoại thì người ấy còn phải chịu trách nhiệm cả về ngụ ý muốn truyền đạt lẫn những tác động mà người ấy muốn gây ra nơi người tiếp nhận phát ngôn. Nội dung ngữ nghĩa và ngữ dụng của nhé phần nào có liên quan đến những nội dung vừa nêu trên. Do vậy những phân tích về các phát ngôn trong ví dụ (2) sẽ là những minh họa giúp ta nhận ra được sở chỉ của người nói hoặc sự suy diễn của người nghe, dựa trên niềm tin, quan điểm và nền kiến thức của một trong hai nhân vật của cuộc giao tiếp. Trong (2a), sự có mặt của nhé đánh dấu tình thái kêu gọi sự đồng tình chấp nhận hành động/hoạt động từ phía người tiếp nhận. Do vậy có thể nói sự vận dụng nhé vào phát ngôn là nhằm để thực hiện chiến lược giao tiếp thân thiện khi người nói đưa ra một yêu cầu hay đề nghị nào đó. Khi giao tiếp, khó tránh khỏi có lúc ta phải đưa ra lời đề nghị hoặc yêu cầu để mình-người nói- có được sự đồng tình để thực hiện hành động, để người nghe nên/cần làm một cái gì đó theo mong muốn của mình, hoặc để người đối thoại chấp nhận lời đề nghị để cả hai-người nói, người nghe-cùng thực hiện hành động. Trong những trường hợp như vậy, một chiến lược giao tiếp khôn ngoan là làm sao để người nghe (nếu người ấy là đối tượng phải thực hiện yêu cầu) có cảm giác là anh ta không bị đặt vào tình trạng bị bắt buộc (như trường hợp của cách sử dụng từ phải bên trên). Khi ấy một hành động mang tính bác bỏ hoặc một lời từ chối khi nghe câu phát ngôn có chứa từ nhé sẽ khó mà được tiến hành một khi cần phải giữ phép lịch sự thông thường. Từ nội dung nghĩa tình thái kêu gọi sự đồng tình chấp nhận ấy, trong (2b) sự có mặt của nhé chứng minh rằng nội dung nghĩa ấy đã mang màu sắc mới-màu sắc của nét nghĩa tình thái khái quát hóa hơn. Trong khi thực hiện những giao tiếp xã hội hoặc trong quan hệ giữa những người cùng gia đình, việc sử dụng những câu nói như: ‘Cám ơn’, ‘Xin lỗi’, ‘Tạm biệt/Chào’, ‘Tha thứ cho tôi’ v.v.. thường gây cảm giác rằng những nội dung đại loại như vậy là quá khuôn sáo. Để tránh tình trạng này, rất may trong tiếng Việt chúng ta lại có sự có mặt của tiểu từ nhé. Do vậy sự có mặt thường xuyên của nhé trong những kết cấu mang tính nghi thức xã giao trở thành một bộ phận không thể thiếu được khi người nói cần đến một nội dung tình thái kêu gọi sự đồng tình chấp nhận đề nghị của người nói. Như vậy giữa nội dung của (2a) và nội dung tình thái của (2b) có gì khác biệt? Cũng là kêu gọi sự đồng tình từ phía người nghe nhưng trong (2a) yêu cầu của người nói thiên về hướng mong đợi một hành động (mà nhân vật tiến hành là người nghe, hoặc 17
  18. Bài tập điều kiện chuyên đề Ngữ nghĩa học – Nguyễn Thị Hằng Nga- cao học K20 ĐHSPHN là cả hai, hoặc là chỉ riêng người nói). Trong khi đó những câu nói mà nhé (trong 2b) có thể thay vào được lại được đánh dấu ở ý mong muốn hành động hoặc thỉnh cầu của mình được chấp nhận mà không cần bất kỳ sự tham gia nào của người nghe. Tuy nhiên nhé không chỉ mang nội dung tình thái về việc yêu cầu chấp nhận hoặc được vận dụng trong câu để thực hiện chức năngï hóa giải những đề nghị cứng nhắc, gây cảm giác thoải mái, tự nhiên nơi người nói; hoặc mang đến sự thân thiện, tin cậy nơi người đối thoại những khi cần thiết phải thốt ra những lời được xem là ‘khó nói’. Trong những tình huống khi người nói muốn tỏ thái độ dứt khoát, không chút khoan nhượng của mình thì nội dung tình thái của nhé đã có một bước chuyển có thể là hoàn toàn trái ngược với nội dung mang tính ‘thân thiện’ ban đầu. Khi ấy việc sử dụng nhé trở thành một phương tiện hữu hiệu, góp phần làm cho câu nói gây ra một hiệu lực nào đó nơi người tiếp nhận. Phát ngôn (2c) chứng minh cho điều đó. Sự xuất hiện của nhé trong trường hợp này không làm giảm nhẹ sự căng thẳng do tác động lời tuyên bố trước đó (Tôi không tin cô.), như trường hợp của (2a) hoặc (2b). Trái lại nội dung tình thái mà nhé mang lại cho (2c) lại nhằm mục đích làm tăng thêm tính phản bác trong việc cắt đứt không thương tiếc một hy vọng mỏng manh nào đó của người cùng cuộc hội thoại (hy vọng sẽ thuyết phục hoặc gây niềm tin nơi người tiếp chuyện). Như vậy có thể nói trong những trường hợp tương tự như (2c), nội dung tình thái của câu nói được đánh dấu ở ý răn đe người đối thoại, thông qua sự có mặt của nhé ở cuối phát ngôn. Như vậy có thể nói sự chuyển nghĩa của nhé không hoàn toàn giống như sự chuyển nghĩa của phải và một số tiểu từ tình thái khác (như xem, mất… chẳng hạn), không phái sinh từ một nghĩa gốc ban đầu để rồi có sự hòa trộn hoặc phái sinh những nét nghĩa hoàn toàn mới. Trường hợp của những tiểu từ tình thái chuyên dụng như nhé chẳng hạn, qua ví dụ (2) bên trên, đề cập đến sự chuyển nghĩa của nhé chính là đề cập đến sự chuyển đổi từ nét nghĩa tình thái này sang nét nghĩa tình thái khác hoặc là sự xuất hiện của những nét nghĩa tình thái tương đương hoặc khác biệt hẳn nhau. Đến đây chúng ta có thể kết luận rằng, sự chuyển nghĩa, sự hoà trộn những nét nghĩa với nhau hoặc sự mở rộng nghĩa của từ nói chung và của từ tình thái nói riêng có liên quan đến quá trình ngữ pháp hóa của từ. Trong quá trình đó nghĩa gốc ban đầu có thể vẫn là nét nghĩa chủ đạo; nó cũng có thể bị lu mờ trước một nét nghĩa mới, hoặc sẽ vuợt trội hơn hoặc bị mai một đi hoặc bị thay bằng một nét nghĩa hoàn toàn mới. Nhưng dù có sự chuyển đổi nghĩa đến mức độ nào đi nữa thì chức năng của từ tình thái hoạt động trong khung vị ngữ (dù là vị từ hay tiểu từ) cũng không hề bị ảnh hưởng. Chúng vẫn làm nhiệm vụ phản ánh thái độ, quan niệm, niềm tin hoặc sự đánh giá 18
  19. Bài tập điều kiện chuyên đề Ngữ nghĩa học – Nguyễn Thị Hằng Nga- cao học K20 ĐHSPHN của người nói về điều được nêu ra trong phát ngôn nhằm đến một đối tượng nhất định, hoặc là chính người nói hoặc là đến người cùng cộng tác hội thoại. 2.2.3. Khi bàn về nghĩa của thực từ không ai có thể phủ nhận quá trình chuyển đổi nghĩa của các đơn vị này. Sự chuyển đổi đó thường đi theo một con đường nhất định: chuyển từ nghĩa cụ thể sang nghĩa trừu tượng, hay nói cách khác chuyển từ nghĩa của thế giới thực sang nghĩa của thế giới sử dụng ngôn từ. Từ tình thái trong câu phát ngôn tiếng Việt (như các tiểu từ cuối, chẳng hạn) tuy chưa bao giờ được xem là thực từ nhưng cũng không tách ra khỏi quá trình ngữ pháp hóa từ vựng đó- quy luật vốn chỉ dành cho những đơn vị được xếp vào hàng thực từ. Vì vậy khi phân tích những nét nghĩa có thể có trong từ tình thái (được gọi là nghĩa tình thái) cần phải xét đến quá trình ngữ pháp hóa những đơn vị vốn được xem là hư hóa này. Nhìn chung sự chuyển nghĩa của từ tình thái trong phát ngôn tiếng Việt đã và đang diễn ra thông qua ba con đường chính: (1) sự phong phú của hàm ngôn hội thoại, hay nói chính xác hơn là chủ ý của người nói khi sử dụng ngôn từ, (2) sự mở rộng ngôn cảnh trong thực tế giao tiếp, (3) sự suy diễn của người nghe khi tiếp nhận phát ngôn. Trong 3 con đường đó sự tham gia của hai nhân vật của cuộc hội thoại-người nói và người nghe- là hết sức quan trọng. Tuy vậy sự suy diễn của người nghe hoặc chủ ý của người nói có đạt đến mức chính xác như mong đợi hay không (được thấu hiểu hoặc đoán đúng ý) là còn tùy thuộc phần lớn vào ngôn cảnh. Tùy theo ngôn cảnh, từ nghĩa gốc ban đầu những nét nghĩa mới sẽ xuất hiện, hoặc là có sự hòa trộn giữa nét nghĩa cũ với nét nghĩa mới hoặc là tạo ra một nét nghĩa hoàn toàn mới, hoặc chỉ là sự mở rộng nghĩa từ nghĩa gốc v.v.. Điều này cho thấy, nếu xét trên bình diện ngữ nghĩa, có sự khác biệt rõ rệt giữa thực từ và từ tình thái. Khi hoạt động trong những ngữ cảnh khác nhau thì tính phong phú về mặt ngữ nghĩa của thực từ được phát huy hơn bao giờ hết, còn khi tách ra khỏi ngữ cảnh, thực từ vẫn còn nguyên nghĩa gốc ban đầu. Ngược lại, tuy không thể phủ nhận tính đa nghĩa (nghĩa tình thái) của từ tình thái trong những ngôn cảnh khác nhau (trừ một số từ đã mất đi vai trò của mình trong phát ngôn vì tần số xuất hiện ngày càng ít), nhưng một khi tách rời khỏi ngôn cảnh thì từ tình thái chỉ còn là những đơn vị rỗng cả về nội dung ngữ nghĩa lẫn chức năng ngữ dụng. 3.Sự chuyển nghĩa của từ trong hoạt động ngôn ngữ Khi phân tích nghĩa của từ, chúng ta đã tạm thời cô lập hoá hai bình diện ngôn ngữ và lời nói để xem xét nghĩa của từ trong ngôn ngữ như một hệ 19
  20. Bài tập điều kiện chuyên đề Ngữ nghĩa học – Nguyễn Thị Hằng Nga- cao học K20 ĐHSPHN thống tĩnh. Còn một vấn đề nữa là trong hoạt động ngôn ngữ thì về phương diện nghĩa, từ sẽ như thế nào? Tuy ngôn ngữ và lời nói không tách biệt nhau, nhưng về nguyên tắc nghiên cứu, nhiều khi sự cô lập hoá tạm thời như vậy vẫn là cần thiết và hữu ích. 3.1. Khi từ đi vào hoạt động ngôn ngữ, nghĩa của nó được hiện thực hoá, cụ thể hoá và được xác định. Lúc đó, các thành phần nghĩa trong cơ cấu nghĩa của từ sẽ giảm dần tính trừu tượng và khái quát đến mức tổi thiểu để đạt tới tính xác định, tính cụ thể ở mức tối đa. Ví dụ, từ "chân" trong tiếng Việt, với tư cách là đơn vị của ngôn ngữ có 6 nghĩa khác nhau (theo Từ điển tiếng Việt. H., 1988). Cơ cấu đó đã được xây dựng nên một cách khái quát, và khi nhận thức từ này dưới dạng một từ của ngôn ngữ, từ từ điển, thì người ta hướng đến nó như một cái nhìn tổng thể chung. Chỉ khi nào đi vào những phát ngôn cụ thể như: – Mong cho chân cứng đá mềm. – Chân đi chữ bát, mắt thì hướng thiên. – ... thì một trong 6 nghĩa của từ này mới được bộc lộ, được cụ thể hoá và được xác định. Chính vì không bị ràng buộc cố định vào một hoặc một phạm vi sự vật nào đó nên các đơn vị từ ngữ mới có được khả năng hoạt động rộng rãi và trở nên có tính khái quát cao, để rồi, khi đi vào hoạt động trong văn bản mới trở thành cụ thể và xác định. 3.2. Mặt khác, cũng trong hoạt động ngôn ngữ, đồng thời với sự giảm thiểu tính khái quát thì từ lại có thể được gia tăng những sắc thái mới, nội dung mới do chính sự vật mà nó biểu thị đem lại. Chẳng hạn, xét các từ máu, lửa, rũ, bùn trong câu: "Nước Việt Nam từ máu lửa Rũ bùn đứng dậy sáng loà". (Nguyễn Đình Thi) Ở đây, các từ nêu trên không chỉ đơn thuần mang các nội dung ngữ nghĩa vốn có của chúng nữa. Chúng đã mang những sắc thái mới, sắc thái bổ sung mà chỉ trong những bối cảnh sử dụng như ở diễn từ (discourse) này mới có được. Các biểu vật máu, lửa, bùn,... không phải chỉ là máu, lửa và bùn như trong từ điển chỉ ra, giải thích nữa. 20
nguon tai.lieu . vn