Xem mẫu

  1. UBND TỈNH QUẢNG NGÃI TRƯỜNG ĐẠI HỌC PHẠM VĂN ĐỒNG  BÀI GIẢNG VÕ VOVINAM – VIỆT VÕ ĐẠO (TỰ CHỌN 2) GV: ThS. NGUYỄN NGỌC CANG Quảng Ngãi, năm 2019
  2. LỜI NÓI ĐẦU Thực hiện thông báo số: 935/TB-ĐHPVĐ của Hiệu trưởng trường Đại học Phạm Văn Đồng về việc triển khai đưa bài giảng lên website nhằm tạo điều kiện cho sinh viên có thêm tài liệu để nghiên cứu học tập, qua đó đáp ứng yêu cầu đổi mới đào tạo theo hệ thống tín chỉ, từng bước nâng cao chất lượng đào tạo trong nhà trường, chúng tôi đã biên soạn và giới thiệu đề cương bài giảng môn võ Vovinam – Việt Võ Đạo (tự chọn 2) với thời lượng 02 tín chỉ, giảng dạy 45 tiết (lý thuyết 15 tiết, thực hành 30 tiết), dùng cho sinh viên chuyên ngành Cao đẳng Sư phạm Giáo dục Thể chất trường Đại học Phạm Văn Đồng. Hiện nay Vovinam là môn võ thuật đã không ngừng phát triển về tư tưởng võ đạo và hệ thống kỹ thuật, cũng như được giới thiệu, quảng bá rộng rãi đến các quốc gia và vùng lãnh thổ trên khắp năm châu. Học phần này trang bị cho sinh viên biết được phong trào phát triển vovinam hiện nay trên thế giới, lý thuyết về võ đạo đức dũng và lòng nhân, phương châm tu dưỡng hành xử của người học võ. Các kỹ thuật về chiến lược, phản đòn, đòn chân tấn công, khóa gỡ, song luyện, Quyền pháp... Để tiếp thu tốt nội dung bài giảng, sinh viên cần tự nghiên cứu học tập kết hợp với các tài liệu tham khảo, tự giác tích cực trong ôn tập, ngoại khóa, tự học và thảo luận nhóm để nắm chắc các nội dung trọng tâm của bài giảng, đồng thời có thể vận dụng vào hoạt động rèn luyện học tập của bản thân cũng như trong thực tiễn công tác sau này. Trong quá trình biên soạn mặc dù tác giả đã rất cố gắng, nhưng không tránh khỏi những thiếu sót. Kính mong những ý kiến đóng góp của quí thầy cô, các đồng nghiệp và các bạn sinh viên để tập bài giảng ngày càng hoàn thiện hơn. Xin chân thành cảm ơn! TÁC GIẢ 1
  3. CHỮ VIẾT TẮT DÙNG TRONG BÀI GIẢNG CĐSP: Cao đẳng sư phạm GDTC: Giáo dục thể chất GV: Giáo viên HL: Huấn luyện HLV: Huấn luyện viên SV: Sinh viên TDTT: Thể dục thể thao VĐV: Vận động viên TP: Thành phố VVN: Vovinam VVF: Liên đoàn Vovinam Việt Nam IVF: Liên đoàn Vovinam Quốc Tế WVVF: Liên đoàn Vovinam Thế giới AVF: Liên đoàn Vovinam Châu Á EVVF: Liên đoàn Vovinam Châu Âu SEAVF: Liên đoàn Vovinam Đông Nam Á AFVF: Liên đoàn Vovinam Châu Phi VVN – VVĐ: Vovinam – Việt võ đạo TP. HCM: Thành phố Hồ Chí Minh VĐTQ: Vô địch toàn quốc TTCB: Tư thế chuẩn bị (H.2.1): Hình 2.1 2
  4. Chương 1. LÝ THUYẾT (15 tiết) 1.1. Phong trào Vovinam trên thế giới hiện nay Vovinam được phát triển dựa trên môn vật cổ truyền Việt Nam, kết hợp với những tinh hoa của các môn phái võ thuật trên khắp thế giới. Môn sinh Vovinam được tập luyện những đòn thế tay không, cùi chỏ, chân, gối cho đến các loại vũ khí như kiếm, đao, mã tấu, dao, côn, quạt... Đưa Vovinam ra với thế giới là một hành trình rất dài, nhưng Võ thuật Việt Nam đã từng bước khẳng định được vị thế trên đấu trường quốc tế. Thành lập kể từ năm 1936 và trải qua hơn 80 năm phát triển, Vovinam đã được thế giới công nhận và được đưa vào chương trình thi đấu ở một số giải đấu võ thuật, thậm chí có riêng giải vô địch thế giới. Vovinam - Việt võ đạo là môn võ được võ sư Nguyễn Lộc sáng lập vào năm 1936 nhưng lúc này hoạt động âm thầm, đến 1938 mới công khai đồng thời ông đề ra chủ thuyết "cách mạng tâm thân" để thúc đẩy môn sinh luôn luôn canh tân bản thân, và hướng thiện về thể chất lẫn tinh thần. Môn võ được truyền bá nhằm mang đến cho người học những phương pháp tự vệ chỉ qua một thời gian ngắn. Trải qua nhiều giai đoạn phát triển khó khăn, đến nay Vovinam Việt Võ Đạo trở thành điểm đến thu hút của mọi người, đặc biệt là các bạn trẻ yêu thích võ thuật. Dù ra đời trong thập niên 1930, nhưng phải tới những năm 1970 Vovinam mới vươn ra quốc tế và bước sang thiên niên kỷ mới, môn võ đã có mặt ở nhiều quốc gia trên thế giới. Liên đoàn Vovivam ra đời năm 2007 và trong 5 năm tiếp theo, các liên đoàn Vovinam ở tầm châu lục và thế giới lần lượt ra đời. Năm 2009, giải vô địch Vovinam thế giới đầu tiên được tổ chức, một cột mốc quan trọng trong sự mở rộng của môn võ trên đấu trường quốc tế. Vovinam được coi là một biểu tượng của khát vọng giành độc lập dân tộc từ tay thực dân Pháp. Sau quá trình phát triển lâu dài, nó đã mang thêm những giá trị văn hóa và tinh thần thượng võ của dân tộc Việt Nam. Những giá trị ấy đã sớm lan tỏa ra thế giới và thu hút không ít bạn bè quốc tế theo đuổi môn võ. 3
  5. Vừa qua, tại New Delhi - Ấn Độ, cộng đồng Vovinam thế giới có dịp gặp nhau để chào đón hai sự kiện trọng đại đó là Đại hội Liên đoàn Vovinam thế giới nhiệm kỳ 2 (2017 – 2022) và giải Vovinam thế giới lần thứ 5. Điều này lại một lần nữa khẳng định sức sống mạnh mẽ của Vovinam Việt Nam. Đại hội đã thu hút không chỉ sự quan tâm của đội ngũ huấn luyện viên, vận động viên, trọng tài Vovinam mà còn thu hút sự quan tâm của những người yêu thích và tham gia tập luyện, thi đấu môn Vovinam của nhiều quốc gia trên thế giới. Sau một nhiệm kỳ chính thức được thành lập và đi vào hoạt động, các tổ chức Liên đoàn, hiệp hội, tổ chức Vovinam trực thuộc WVVF cùng tất cả võ sư, huấn luyện viên, môn sinh, phong trào Vovinam quốc tế đã không ngừng phát triển cả về chất và lượng khắp nơi trên khắp năm châu. Trong số đó, nổi bật là sự phát triển mạnh mẽ của phong trào Vovinam tại các nước Châu Phi và các quốc gia Đông Nam Á (Indonesia, Lào, Campuchia, Myanmar, Thái Lan, Philippines). Riêng tại Việt Nam, nơi xuất xứ của môn võ dân tộc truyền thống này đã có hơn 40.000 môn sinh thành viên. Trong thời gian qua, Vovinam cũng đã được giới thiệu đến các quốc gia mới như Thổ Nhĩ Kỳ, Sri Lanka, Thái Lan, Hy Lạp, Senegan.., cùng với sự duy trì và củng cố phong trào tại các nước có thế mạnh và phát triển lâu đời như: Pháp, Đức, Ý, Tây Ban Nha, Algeria, Iran, Ấn độ,… Nhiều sự kiện, giải thi đấu thể thao tầm cỡ, quan trọng đã được duy trì tổ chức thành công tốt đẹp như các giải Vô địch thế giới lần 1 – 2009 tại Việt Nam, lần II – 2011 tại Việt Nam, lần III – 2013 tại Pháp, lần IV – 2015 tại Algeria, các giải vô địch Châu Á, Châu Âu, Châu Phi, Đông Nam Á, Asian Indoor Games, SEA Games, Asian Beach Games, … Là dấu mốc quan trọng để môn thể thao dân tộc Việt Nam từng bước hòa nhập với đời sống thể thao khu vực và quốc tế, giúp tiếp tục quảng bá hình ảnh, tinh hoa văn hóa dân tộc và tinh hoa võ thuật Việt võ đạo trên đấu trường quốc tế. Tại Đại hội nhiệm kỳ II lần này, các đại biểu đều mong muốn WVVF tiếp tục hoàn thiện luật thi đấu, điều lệ thi đấu cho các giải quốc tế, các văn bản hướng dẫn kỹ thuật, hoàn thiện hệ thống bốc thăm xếp lịch và bộ máy chấm điểm điện tử cho phần thi quyền và đối kháng của Vovinam giúp nâng cao chất lượng và hiệu 4
  6. quả của công tác tổ chức giải thi đấu. WVVF tiếp tục quảng bá, duy trì và phát triển môn Vovinam tại các quốc gia trên thế giới góp phần nâng cao sức khỏe cho người tập và thành tích thi đấu của vận động viên, quan tâm đến công tác trọng tài… Đại hội đã tiến hành bầu Ban chấp hành Liên đoàn Vovinam thế giới nhiệm kỳ II (2017 – 2022) gồm 42 thành viên. Ông Mai Hữu Tín, chủ tịch Hội đồng quản trị kiêm tổng giám đốc Công ty cổ phần đầu tư U&I (Unigroup), Chủ tịch Liên đoàn Vovinam Việt Nam được bầu giữ chức Chủ tịch WVVF. Đại hội WVVF bầu ra 8 Phó chủ tịch gồm: Võ sư Nguyễn Văn Chiếu (phó Chủ tịch Liên đoàn Vovinam Việt Nam) giữ chức Phó Chủ tịch phụ trách chuyên môn, Macovei Florin (chủ tịch Liên đoàn Vovinam Châu Âu), Djouadi Mohammed (chủ tịch Liên đoàn Vovinam châu Phi), Nouhi Mohammed (chủ tịch Liên đoàn Vovinam châu Á), ông Rat Sokhorn (chủ tịch Liên đoàn Vovinam Đông Nam Á), ông Sahai Vishnu (chủ tịch Liên đoàn vovinam Nam Á), ông Lê Hải Bình (phó chủ tịch Liên đoàn Vovinam Việt Nam). Ngoài ra, 03 phó tổng thư ký gồm ông Nguyễn Bình Định (phó tổng thư ký Liên đoàn Vovinam Đông Nam Á), bà Berrier Thanh Nhã (tổng thư ký Liên đoàn Vovinam châu Âu), ông Traore Moumouni (chủ tịch Liên đoàn Vovinam Bờ Biển Ngà). Đại hội cũng tôn vinh ông Lê Quốc Ân, phó chủ tịch thường trực Liên đoàn Vovinam thế giới nhiệm kỳ I làm chủ tịch danh dự của WVVF. Giải Vovinam thế giới lần thứ 5 quy tụ gần 350 huấn luyện viên, vận động viên đến từ 19 quốc gia trên thế giới, tranh tài ở 16 hạng cân đối kháng và 27 nội dung quyền. 1.2. Đức dũng và lòng nhân Trên phù hiệu môn phái Vovinam - Việt Võ Đạo (VVN), chúng ta thấy có hai hình biểu tượng, hình dáng giống nhau nhưng khác nhau về màu sắc (xanh, đỏ) được trình bày với hai vị thế trái ngược, tượng trưng cho hai nguyên lý âm dương, hai hình biểu tượng này được bao quanh bởi một vòng tròn (trắng), tượng trưng cho đạo thể chỉ sự khắc chế, điều hòa, bao dung, nên đã kết hợp với nhau thành một tổng thể hài hoà. 5
  7. Dương tố: Biểu tượng cho sự cứng mạnh. Đức dũng cảm - bàn tay thép. Âm tố: Biểu tượng cho sự mềm dịu. Lòng nhân - trái tim từ ái. Vòng đạo thể: Biểu tượng cho sự khắc chế, điều hòa, bao dung. Trí tuệ minh mẫn - điều hợp hai nguyên lý âm dương. Trong nhiều giai đoạn, đức dũng và lòng nhân được diễn tả là hai khả năng đối nghịch trong một tổng thể hài hòa có tác dụng tích cực để giải quyết những vấn đề phát sinh từ cuộc sống. Người học võ muốn đạt mức tinh diệu, phối hợp được Cương, Nhu (âm, dương) phải rèn luyện và hàm dưỡng tâm và thân, cả võ thuật lẫn võ đạo. Nếu chỉ có dũng mà thiếu nhân sẽ tàn bạo, độc ác. Nếu chỉ có nhân mà thiếu dũng sẽ yếu hèn, nhu nhược. Do vậy, đức dũng phải có lòng nhân đi cùng. Dũng cảm khác can đảm, người can đảm không sợ nguy hiểm, khi nộ khí bốc lên có thể liều mạng sống, nhưng người dũng cảm khác hơn, phải có ý thức để sự nóng giận đạt tới một mục đích nào đó có một tầm vóc nhất định. Dũng cảm được phân thành hai cấp: Thường dũng và đại dũng Trong đời sống chúng ta thường gặp những hành động biểu lộ về đức dũng: Người chiến sĩ vượt qua những trở ngại, thử thách cam go để hoàn thành nhiệm vụ, người con cố gắng khắc phục mọi khó khăn để phụng dưỡng cha mẹ già yếu, bệnh hoạn, người cán bộ có tinh thần trách nhiệm cao, vượt qua mọi cạm bẫy mua chuộc để chu toàn trách vụ. Tất cả đều biểu hiện lòng can đảm, sức chịu đựng, tận tuỵ với nghĩa vụ, được gọi là đức dũng. Nhưng dũng có hai mức cao thấp khác nhau là thường dũng và đại dũng. Bốn phẩm tính chủ chốt của tinh thần dũng cảm, người môn sinh VVN phải trau dồi, tu tập, đó là: Tự chủ, tự thắng, cương trực, tận tụy với nghĩa vụ. Trau dồi được bốn đức tính trên, chắc chắn chúng ta sẽ tạo được phong cách sống đặc thù cho mình, để trở thành hiệp sĩ thời đại, thể hiện được tinh thần “Bàn tay thép đặt lên trái tim từ ái”. “Nhân” theo đạo giáo Đông Phương nói chung là lòng yêu thương con người, quan tâm nghĩ tới người, giúp đỡ người khi gặp khó khăn, an ủi, cưu mang 6
  8. người khi gặp hoạn nạn. Các từ ngữ: Bác ái, từ bi, vị tha, từ ái… Thường được sử dụng để biểu thị lòng nhân. “Nhân” theo cổ thư trước hết là: Biết sống với người, vì người, cho người, luôn luôn nghĩ tới người, hòa thuận với người, quên mình vì công nghĩa. Sống như vậy sẽ sáng suốt trong phán đoán và nhận định, cảm phục, lôi cuốn được người cộng tác và tin tưởng nơi mình. Biết thích nghi với hoàn cảnh, thời thế, linh động uyển chuyển trong xử sự, tháo vát lanh lợi trong công việc, tùy người tùy việc mà kinh quyền biến hoá. Biết sống và làm việc theo cái lý đương nhiên, theo lẽ phải mà xử sự, không chủ quan đặt ý riêng của mình vào. Không nhất quyết là sự việc phải diễn biến như mình suy luận, tức không độc đoán, bảo thủ hay nôn nóng, để sự việc được diễn tiến tự nhiên, không định mức kết quả. Như vậy, “Nhân” là cái tính có sẵn trong mỗi người như cái hạt, cái mầm, cái cốt lõi để nuôi dưỡng, cái lẽ phải chung cho con người, khiến cho con người đối xử với đồng loại như đối đãi với chính bản thân mình. Để minh họa cho lập luận đó, người xưa nói: “Để thực hiện lòng nhân, hàng ngày phải cung kính, chân thành, đối xử phải khoan hòa bao dung. Làm việc phải thận trọng giữ chữ tín, giao thiệp phải trung thực, trải rộng lòng ra với mọi người. Đó là: Cung, Khoan, Tín, Mẫn, Huệ. Cung: Kính cẩn nghiêm trang thì người không loạn. Khoan: Khoan hòa bao dung thì được người thân cận. Tín: Giữ lời hứa sẽ được người tin cậy. Mẫn: Nhậm lẹ, tháo vát thì việc mau thành. Huệ: Trải rộng lòng thì người cảm phục và đủ để sử dụng, điều khiển người. * Lòng nhân theo quan điểm việt võ đạo Tổng hợp các quan niệm “Nhân” của các đạo giáo Đông Phương, người môn sinh VVN ý thức trách nhiệm của mình đối với bản thân, gia đình, dân tộc và nhân loại, tích cực thực hiện ba phần nhiệm vụ: Sống, giúp người sống, sống cho người khác. 7
  9. Sống: Ở đây là hướng kỷ chứ không ích kỷ hay vị kỷ. Hướng kỷ là phải bắt đầu từ mình, tự kiện toàn bản thân, trên ba phương diện tâm - trí - thể để trở thành người hữu ích. Giúp người khác sống: Tức hướng tha, nghĩ tới người khác, giúp họ kiện toàn tấm thân để đạt nguyện vọng trở thành người hữu ích như mình. Sống cho người khác: Tức hướng thượng, quan tâm tới đại nghĩa, biết quên mình hy sinh cho đích sống cao đẹp, cho lý tưởng, phục vụ công ích. Như vậy, lòng nhân con người môn sinh VVN không vị kỷ cũng chẳng vị tha, mà đồng thời cùng một lúc phải nghĩ tới cả ta lẫn người. Phải thể hiện tuần tự, từ mình đến người, từ gia đình đến xã hội, từ người tốt đồng chí hướng đến người sơ giao chưa biết gì về họ, nhưng đối đãi với tất cả đều bình đẳng ngang hàng như chính bản thân mình chứ không phân chia giai cấp, tôn giáo, dân tộc, dòng dõi. Nói một cách khác là tùy người mà thể hiện lòng nhân: Gần gũi thâm giao với người tốt, chân thành nêu gương cảm hóa người chưa tốt thành người tốt chứ không kỳ thị xa lánh. Đôi khi cần phải có thái độ cứng rắn răn đe, cảnh cáo để người thức tỉnh trở lại đường ngay, chứ không thù hằn, cưỡng chế. Lòng nhân của người môn sinh VVN còn thể hiện ở lòng yêu hòa bình, làm tốt trách vụ kiến thiết đời sống, để ánh hào quang rực rỡ chan hòa Chân - Thiện - Mỹ tỏa sáng khắp nơi. Để thể hiện những điều trên, chúng ta cần áp dụng bốn nguyên tắc dưới đây: - Yêu người nghĩ tới người: Muốn được người yêu và nghĩ tới mình, mình phải yêu người nghĩ tới người trước, phải tìm hiểu nguyện vọng của người cả về tinh thần lẫn vật chất. Tất nhiên, chúng ta không phải là bậc thánh có phép màu đáp ứng mọi khát vọng, nhưng chúng ta có thể mang đến cho người niềm an ủi chân thành, sự giúp đỡ thiết thực. Sự quan tâm an ủi, giúp đỡ sẽ khích lệ người yêu đời, hăng say làm việc, nhờ đó chúng ta cũng hưởng vui lây. - Nhận biết ưu điểm của người: Là người ai cũng có ưu điểm và khuyết điểm, nếu chỉ soi mói đến cái sai, cái xấu của người, thì cái sai, cái xấu sẽ xâm nhập vào chúng ta. Trái lại, nếu nhận biết 8
  10. những ưu điểm của người, thì ưu điểm của chúng ta nổi bật, và những ưu điểm đó sẽ sửa đổi những khuyết điểm của nơi chúng ta. - Hãy đối xử với người như mình ước mong được người đối xử lại như thế: Một nguyên tắc rất công bằng hợp lý, chúng ta phải luôn tâm niệm và áp dụng trong đời sống, chắc chắn chúng ta sẽ tiếp nhận được niềm thông cảm chân thành và lòng yêu thương vô cùng tốt đẹp. Việc đời có đi có lại, gieo nhân thì hái trái. Chúng ta độ lượng tận tâm với người thì sẽ được người độ lượng tận tâm lại, chính hành vi khả ái đó làm cho tâm hồn chúng ta cởi mở, vui tươi và có tác dụng cảm hóa được lòng người. - Lòng nhân là nguồn vui vô tận thể hiện giá trị con ngời: Người môn sinh VVN ăn ở thủy chung có lòng nhân với người, vì đó là nguồn vui, là nghĩa sống làm người chứ không vì lời khen hay sự đền đáp nhớ ơn. Chúng ta hành xử tốt, bởi chính điều đó làm đời sống có ý vị, mọi người sống gần gũi, thương yêu nhau hơn. Chúng ta sống với sự thoải mái của tâm hồn, với nguồn tin tưởng vô biên của lẽ sống, tràn ngập ánh hào quang Chân - Thiện - Mỹ. Tuy nhiên, tất cả những hành vi thể hiện lòng nhân của người môn sinh VVN phải đặt dưới sự hướng dẫn của trí tuệ để được đúng chỗ hợp thời, có lúc nên khoan, lúc nên mau, có lúc cần tích cực chia sớt đau thương, tận tình giúp đỡ, có lúc phải bộc trực cản ngăn, cảnh cáo để cảm hóa. Đó mới đúng là lòng nhân của người môn sinh VVN có tác dụng tích cực kết hợp và hướng dẫn lẫn nhau, cùng sống vui, yêu đời, xây dựng nền hòa bình vĩnh cửu trong tâm hồn, người người nhìn chung một hướng. 1.3. Phương châm tu dưỡng hành xử của việt võ đạo sinh Suốt đời người, mỗi chúng ta đều có 3 loại thắc mắc : - Phải nghĩ gì? - Phải làm gì? - Phải làm sao được thành công? - Mỗi lần giải quyết xong mọi thắc mắc, là ta đã tìm được một phương châm. Phương châm (phương: phương hướng, châm: kim) hiểu theo nghĩa hẹp là cái kim chỉ phương hướng để tiến tới, hiểu theo nghĩa rộng là xu hướng, là con đường phải 9
  11. đi mà ta muốn đi. Đi đường, đôi mắt là phương châm của thân thể. Suy nghĩ, óc là phương châm của tìm tòi, lựa chọn, phân biệt. Như vậy, trong mọi sinh ngành sinh hoạt xã hội, từ người thợ, nhà nông, nhà buôn, tu sĩ, người lính, ai cũng có phương châm cho công việc, cho đời sống của mình để biết rằng mình phải nghĩ gì, làm gì và sao được thành công. Việt võ đạo sinh cũng vậy, rất cần có phương châm để tu thân, dưỡng tính, hành - động và xử - thế, gọi tắt là Tu - Dưỡng; Hành - Xử. - Phương châm Tu - Dưỡng; Hành - Xử của môn phái Vovinam chính là bó đuốc soi sáng con đường học võ của các môn sinh, có thể vì: Võ thuật học được là cái xác, còn phương châm Tu - Dưỡng; Hành - Xử để tiến tới một nền võ đạo là cái hồn của các môn sinh, xác không hồn là xác chết, cũng như người học võ mà không có phương châm Tu - Dưỡng; Hành - Xử là học lấy cái xác không hồn của Võ thuật để trở thành vũ phu thô bạo. - Có 12 phương châm Tu - Dưỡng; Hành - Xử dành cho các Việt Võ Đạo sinh, 12 phương châm này lại chia thành 4 loại, mỗi loại có 3 phương châm, trùng một chữ đầu để học, để nhớ và để thực hành. Đó là: * Ba phương châm bắt đầu bằng chữ “ Luyện ” là luyện thể, luyện trí, luyện khí (với bản thân). * Ba phương châm bắt đầu bằng chữ “Tận” là tận tình, tận tâm, tận nghĩa (với đời). * Ba phương châm bắt đầu bằng chữ “Thường” là thường khiêm, thường dung, thường liên (với người). * Ba phương châm bắt đầu bằng chữ “Lập” là lập thân, lập chí, lập nghiệp (với xã hội). 1.3.1. Ba phương châm “Luyện ” với bản thân Đối với bản thân, Việt võ đạo sinh phải luôn luôn hàm dưỡng công phu tự luyện, để cố gắng bỏ xấu thêm tốt, bỏ dở thêm hay, để mỗi ngày mỗi thêm kiện toàn tinh - tiến. Có 3 phương châm tự luyện: * Luyện thể: tức rèn luyện thân thể, bằng những phương pháp hô hấp, vận động thân thể và trau dồi võ thuật. 10
  12. - Tại sao phải hô hấp: Vì hô hấp là phương pháp tối yếu của việc điều động kinh mạch, làm cho thân tâm điều hòa, phóng khoáng, hô hấp đúng cách làm cho tinh thần khỏi mỏi mệt, khí huyết lưu thông, sinh lực dồi dào. - Tại sao phải vận động thân thể: Chính vì thân thể con người là nguồn gốc của mọi cơ năng liên lạc, tiếp xúc với ngoại vật. Thân thể có cường tráng, con người mới hoạt động và yêu đời, gạt bỏ những ý nghĩ bạc nhược, bị yếm thế. Khởi đầu, vận động thân thể bằng những phương pháp thể dục, thể thao thông thường. Sau đó, vận động thân thể bằng những phương pháp luyện “Thân thép” (tức: nội, ngoại công). Ngoài ra muốn vận động thân thể có hiệu quả hoàn toàn, cần tiết chế những thú vui làm tổn hại sức khỏe. - Tại sao phải trau dồi võ thuật: Vì võ thuật là tinh hoa cao nhất của việc luyện thể, người chưa có võ công cần học võ để biết cách vận dụng thân thể, điều động kinh mạch và biết cách sử dung khi lâm sự, người có võ công rồi cũng cần luôn luôn trau dồi võ thuật để sức khoẻ và võ học của mình được luôn luôn tăng tiến. * Luyện trí: Tức rèn luyện trí tuệ, bằng những phương pháp học, tự học, tập quan sát, nhận định, luôn luôn tham gia các cuộc hội ý và hội thảo. - Học: Ở thầy, ở bạn, ở trường học, ở trường đời. Học ở những người giỏi hơn và ở cả những người kém mình, nên nhớ câu thành ngữ văn học: “Học ăn, học nói, học gói, học mở” để nhận thức và chiêm nghiệm. - Tự học: Tức học một mình, bằng sách vở, từ xưa biết bao nhiêu danh nhân chỉ vì có chí tự học từ nhỏ đã làm nên sự nghiệp lớn. - Tập quan sát, nhận định: Tức tập xem xét, suy nghĩ, tìm hiểu. Người quan sát, nhận định giỏi là gây được thói quen xem xét, suy nghĩ, tìm hiểu vừa đúng vừa nhanh, quan sát, nhận định giỏi đối với người lính trên chiến trường, là chỉ đảo mắt nhìn qua đã tìm thấy địch, để ra tay hạ thủ trước, quan sát nhận định giỏi đối với người võ sĩ càng cần thiết hơn nữa, vì còn cần trong cách xử sự với đời, ứng phó với nguy cơ, chứ không phải chỉ dùng để thắng lợi trong trường hợp dụng võ. Quan sát, nhận định giỏi đối với người lãnh đạo là chỉ huy và luôn luôn nắm vững được 11
  13. các đầu mối sự việc để đi tới quyết định cuối cùng và tiêu diệt được những gì sẽ tới, phải tới. - Hội ý: Là những cuộc trao đổi ý kiến giữa một nhóm năm, bảy người. Tất cả những phương pháp “Luyện trí” trên mới giúp ta trở thành một người tài giỏi đơn độc trong xã hội. Nói theo cách nói của thời đại, là lối tài giỏi “Anh hùng cá nhân” của thời trung cổ. Ngày nay, trình độ hiểu biết của loài người có tiến xa hơn, việc gì cũng tổ chức tập thể, có tính cách đại qui mô, nên không thể nào còn tiếp tục dùng lối sống “Anh hùng cá nhân” để đi tới thành công. Muốn thành công “Phải biết mình biết người”, phải điều hoà chủ quan với khách quan. - Muốn điều hoà chủ quan với khách quan, trước hết ta phải thực nghiệm bằng cách trao đổi ý kiến với bạn hữu, đồng môn, hoặc thân nhân của ta. Nhưng hội ý không có nghĩa là “Ba phải” nhu nhược, thụ động, mà hội ý là để thông hiểu mọi khía cạnh của sự việc, của vấn đề ta cần tìm hiểu. Khi thông hiểu rồi, cần phải có một quyết định rõ ràng, sáng sủa, thẳng thắn, mới tránh khỏi những tình trạng do sự trì chậm hoặc làm việc tắc trách. - Hội thảo: Là những cuộc thảo luận của nhiều người. Khi việc hội ý gồm nhiều người quá, phải tổ chức những cuộc thảo luận công cộng nhiều người một lúc, vừa để tiết kiệm thời giờ, vừa để mọi người có cơ hội phát biểu ý kiến riêng và đi đến một quyết định chung: Đó là hội thảo. Tóm lại, Việt Võ Đạo Sinh muốn luyện trí cho đầy đủ, cần phải tự trau dồi bằng cách: Học, tự học, tập quan sát, nhận định, và đồng thời, cần phải thực tập những điều đã học hỏi được, bằng hội ý và hội thảo. * Luyện khí: Tức rèn luyện thần khí, để tâm hồn luôn luôn thanh thản, sáng suốt khi tìm hiểu và nhận xét sự việc. - Những bậc thánh nhân đạt tới mức độ sáng suốt, thông thạo mọi việc, ngoài việc tiết chế dục vọng, còn một công phu hàm dưỡng thân khí tới cao độ. Phương pháp tu dưỡng thần khí gồm có: - Cố tránh những tình cảm, cảm xúc bộc phát trong đời sống, có 7 tình cảm, cảm xúc gọi là: Hỉ (mừng), nộ (giận), ai (buồn), lạc (vui), ái (yêu), ố (ghét), cụ (sợ). 12
  14. - Chúng ta chỉ thường nhận, không phải là thánh nhân, nên không phải tuyệt diệt được những tình cảm, cảm xúc trên. Tuy nhiên chúng ta có thể cố gắng tiết chế bớt những tình cảm, cảm xúc quá độ. Châm ngôn ta có câu “Quá giận mất khôn” chính là ở trường hợp này. - Về tinh thần: Vận dụng óc tổng hợp và phân tích để kết hợp và mổ xẻ mọi sự việc. - Về thể chất: Tự luyện một lối sống điều độ từ ăn, ngủ, làm việc, cũng luôn luôn điều dưỡng sức khỏe bằng mọi cách, để có thể chống đối với mọi thay đổi của thời tiết và bệnh tật. * Tóm lại, luyện khí là phương pháp quay nhìn vào tâm thể, nhằm mục đích rèn luyện cho tinh thần được thanh thản, sáng suốt, bình tỉnh để hành xử trong mọi trường hợp, mọi hoàn cảnh. 1.3.2. Ba phương châm “Tận ” đối với đời * Tận tình: Tức đối xử với tất cả cảm tình đôn hậu mà mình muốn có. Muốn thế phải yêu đời, phương châm này áp dụng vào thực tế, có 4 trường hợp đối đãi: Tận tình với thân hữu, tận tình với đồng môn, tận tình với các võ hữu, tận tình với đời. Tóm lại, phương châm “Tận tình” áp dụng trong cách hành xử với đời là tương ái thân hữu, đồng cam cộng khổ với đồng môn, tương liên với võ hữu và từ ái với đời. * Tận tâm: Tức đối xử hết lòng với bạn và với đời Phương châm “Tận tâm” khi áp dụng vào thực tế, cần có 3 đức tính. Chí thành, chí tín, chí công. - Chí thành: Là lúc đối đãi bao giờ cũng lấy sự thành thật làm căn bản, nên nhớ: Kẻ gian dối chỉ có thể thành công nhất thời, người thành thật thành công trường cửu. Giả dối chỉ là lâu đài xây trên bãi cát, còn thành thật là cây đại thụ bắt rễ vào lòng người. - Chí tín: Là lúc nào cũng trọng lời hứa, lời nói. Thà không nói, không hứa, nhưng khi đã nói đã hứa là làm, đó là chí tín. người có đức chí tín sẽ luôn luôn lấy 13
  15. được niềm tin trong lòng mọi người xung quanh, đó là một trong những bí quyết thành công. - Chí công: Là lúc nào cũng công bằng, chánh trực, luôn luôn coi mọi người như nhau, đối xử công bằng với mọi người, không để tình riêng xen lẫn vào việc đối đãi chung. Người có đức chí thành rồi phải giữ đúc chí tín nữa, vì chí tín là mặt ngoài của sự đối xử thành thật, trong việc giao dịch với mọi người. Chí tín rồi, phải giữ đức chí công nữa, vì chí công là cách cư xử, đối đãi trong mọi trường hợp. Tóm lại, phương châm tận tâm vừa hàm dưỡng những đức tính này vào hành động, vào thực tế. Phương châm tận tâm gồm có 3 đức tính: Chí thanh, chí tín, chí công. * Tận nghĩa: Tức đối xử có nghĩa thủy chung với cả mọi người. Phương châm này có hai trường hợp áp dụng: - Trường hợp I: Đối với bạn và đời. Những người thân hay không cùng chung một lý tưởng. Tuy nhiên với tinh thần võ sĩ đạo bao giờ ta cũng giữ một lòng chung thứ nhất, không lừa dối, không phản bội, bất cứ vì một lý do nào và trong trường hợp nào. Bởi vậy, việt võ đạo sinh khi giao kết, cộng tác với ai, phải thận trọng ngay từ lúc đầu, nếu trong trường hợp bất đắc dĩ phải thay đổi ý kiến, chỉ nên thay đổi ý kiến bằng sự im lặng rút lui. Tại sao phải im lặng rút lui; Chính vì lỗi tại ta nhận xét kém cõi, đánh giá lầm người, lầm việc, nên cách hay hơn hết là im lặng lùi vào bóng tối suy tưởng để rút tỉa kinh nghiệm để trau dồi bản lĩnh được khá hơn, giỏi hơn, tốt hơn và nhất là để bảo toàn đức tính thủy chung. * Trường hợp II: Đối với những người cùng theo đuổi một lý tưởng, đặc biệt là một môn phái : Tại sao lại gọi là “Đặt biệt”; Vì môn phái chúng ta đặt căn bản trên tinh thần võ đạo, có kỷ cương rõ rệt, kỷ cương là đầu mối vững chắc xây dựng và phát huy môn phái song song với sự tuân phục, kính mến của người trên. Người trên ở đây là những người đã đi trước ta trong việc phát triển và cũng cố môn phái, những người từng trải, có kinh nghiệm hành xử. 14
  16. Ta thủy chung, tận tụy với môn phái tức là đã thủy chung, tận tụy với chính ta, với lý tưởng mà ta đang theo đuổi. phục vụ dân tộc và nhân loại. 1.3.3. Ba phương châm “Thường” đối với người * Thường khiêm: Tức là lúc nào cũng khiêm nhường, nói thì dễ, làm rất khó, vì tuổi trẻ nhiều tự ái, thích nói nhiều hơn nghe. Vì vậy, muốn đạt tới công trình tu dưỡng này, việt võ đạo sinh phải luôn khả ái, dịu dàng, nhã nhặn để được cảm tình thương mến của mọi người. * Thường dung: Tức là lúc nào cũng tiếp nhận, bao bọc người kể cả đối với kẻ thù, luôn luôn tự vấn xem trong lòng mình có rộng rãi bao dung người không. Đức tính bao dung đã nảy nở trong lòng thương yêu, tha thứ mọi người và gạt bỏ được mọi phán đoán khắc nghiệt, mọi hành động cứng nhắc cùng với sự ghen ghét, đố kỵ. Và cũng chính đức tính bao dung đã biểu lộ được cái hùng khí, rộng lượng của việt võ đạo sinh và cảm hóa được kẻ lầm lỗi trở về với đường ngay, lẽ phải. Nên nhớ: Khắt khe, xét nét người, ai mà chẳng làm được, nhưng rộng lượng, bao dung người chỉ có những người có đời sống tinh thần cao thượng, phong phú mới làm nổi. * Thường liên: Tức là luôn kết liên, hòa hợp với mọi người. Cuộc sống của con người đầy rẫy những bất trắc, đổi thay, phiền não. Thực lòng hòa đồng, kết liên với nhau chưa chắc đã thành công trên đường đời, nữa là còn đối xử hời hợt, khinh bạc với người, việt võ đạo sinh thương yêu, bao dung người không phải chỉ ở lời nói suông là đủ. Phải biểu lộ bằng hành động, bằng thái độ niềm nở, khoáng đạt, tỏ ra mình là hoà đồng, kết liên với người thực sự. 1.3.4. Ba phương châm “Lập” đối với xã hội * Lập thân: Tức là phải gầy dựng cho mình một chỗ đứng trong xã hội. Có đứng vững trong xã hội, mới có thể tự làm thăng hoa những năng khiếu, ưu điểm về tinh thần cũng như vậy chất, để tự tồn. Muốn thế, chúng ta phải giữ. - Vững về đời sống tinh thần: Luôn luôn thêm tốt bỏ xấu, thêm hay bỏ dở, trong mọi trường hợp hành xử, lầm lẫn, bị mê hoặc, bị dối gạt, cũng là một nhược điểm tỏ ra tinh thần không vững; Muốn thế, phải luôn luôn trau dồi tinh thần, tức những đức tính, được vững vàng phong phú. 15
  17. - Vững về đời sống vật chất: Phải có một đời sống vật chất đầy đủ, độc lập trong xã hội. Tại sao phải cần có một đời sống vật chất đầy đủ, độc lập trong xã hội; Chính vì đời sống vật chất có vững vàng, mới có thể gạt bỏ những ý nghĩ nhờ vả, ỷ lại, dựa dẫm khi hành xử, để có thể giữ “Độc lập” được tư tưởng, giữ “Vô tư” được tinh thần, không bị chi phối bởi những nhu cầu vật chất thông thường. Việt võ đạo sinh phải tâm niệm rằng: Đi đôi với đời sống tinh thần phong phú, cần phải “Độc lập” về đời sống vật chất nữa, mới có thể lập thân được. Nhưng, ngược lại, độc lập về đời sống vật chất cũng không có nghĩa là tìm đủ mọi cách làm giàu bằng được, rồi mới nghĩ tới đời sống tinh thần, mà phải song song nghĩ tới việc phát huy cả đời sống tinh thần lẫn đời sống vật chất cùng được phong phú, vững chãi như nhau. Như vậy, mới thoát khỏi những ảnh hưởng xấu trong xã hội làm hư hỏng mọi công trình tu dưỡng đời sống tinh thần của chúng ta. * Lập chí: Tức là phải xây dựng cho mình chí hướng. Vì sau khi thân đã “Lập” rồi, nếu không có một chí hướng cao cả để phụng sự và tiến tới, con người sẽ chẳng khác gì loài vật: chỉ cốt ăn no, ngủ kỹ, yên phận. Có chí hướng, cuộc sống của chúng ta chẳng những có nhiều thú vị hơn, mà còn khiến cho chúng ta cảm thấy được sống xứng đáng hơn, với nghĩa vụ làm dân và làm người của mình. * Lập nghiệp: Tức là phải xây dựng cho mình một sự nghiệp Tất cả những công trình của những việc làm có lý tưởng của mỗi chúng ta gặt hái được kết quả tốt, đều gọi là sự nghiệp. Vì thế, sự nghiệp là phần thưởng cho mỗi cá nhân sau khi hoàn thành sứ mạng phục vụ lợi ích chung. Sự nghiệp khác với danh phận ở chỗ: Sự nghiệp là thuộc lợi ích chung, danh phận chỉ biểu dương tên tuổi, địa vị mà mình đang có, không nhất thiết là có thuộc lợi ích chung hay không. Việt võ đạo sinh cần chú trọng tới sự nghiệp, đặt sự nghiệp lên danh phận. Ví dụ: cùng là võ sư, nhưng có thể người này có sự nghiệp, người kia chưa có, tuy cả hai cùng có danh phận là võ sư. Sự nghiệp bao giờ cũng hàm chứa ý nghĩa tốt đẹp. Danh phận chỉ là cái cầu, sự nghiệp là một khung cảnh lớn. Do đó chúng ta cần chú trọng tới sự nghiệp hơn là chú trọng tới danh phận, vì sự nghiệp còn mãi, nhưng danh phận có thể chỉ có tính cách nhất thời. 16
  18. Muốn thế, ta phải nghĩ tới việc lập nghiệp. Lập nghiệp là con đường tạo cho ta một nghị lực phi thường, vượt lên trên mọi gian lao, khổ hạnh để tìm hưởng hạnh phúc lâu dài. Người tha thiết đến sự nghiệp là người có một tinh thần, ý chí và nghị lực bền bỉ, không hề kiêu hãnh khi thành công, không hề nản lòng khi thất bại. Không một sự nghiệp nào không hao tốn mồ hôi, nước mắt (và đôi khi cả xương máu nữa) mới có thể thành công. Vì thế, người có ý chí lập nghiệp là người không bao giờ sợ khó, ngại khổ, vì hiểu rằng muốn gây dựng nên sự nghiệp, cần phải tự thắng mình trước đã. Tóm lại, lập thân, lập chí, lập nghiệp là 3 loại phương châm căn bản để việt võ đạo sinh biết sống cho ra sống, biết hành xử hợp tình hợp cảnh, để đạt tới một lý tưởng cao đẹp cho đời sống bằng công phu tu dưỡng của mình: Công phu Tu - Dưỡng; Hành - Xử của việt võ đạo sinh. 1.4. Khảo hạch lý thuyết võ đạo (hoàng đai đến hoàng đai I cấp) 1.4.1. Lý thuyết Việt Võ Đạo Câu 1. Quan niệm của môn sinh Vovinam về Tu Thân ra sao? Tu thân là cách mạng tâm thân, là thường xuyên và liên tục: - Hàm dưỡng ý chí - Mở mang kiến thức - Trau dồi đức hạnh - Rèn luyện tài năng Câu 2. Quan niệm của môn sinh Vovinam về tề gia ra sao? Tổ chức và đặt đúng mối tương quan đối xử, đãi ngộ, thông tình đạt lý giữa những phần tử trong gia đình với nhau để gia đình được ổn định hầu có thời giờ và đầu óc thực hiên lý tưởng của mình đã vạch ra. Gia đình theo nghĩa hiện đại gồm 3 thế hệ: ông bà, vợ chồng, con cái. Có gia đình cũng sống chung với nhau cả năm đời. Phải tổ chức sắp đặt sao cho những người liên hệ đó đừng làm trở ngại công việc của ta. Câu 3. Muốn tình sư đệ được thiêng liêng thắm thiết, thầy trò phải đối xử với nhau ra sao? 17
  19. Tình sư đệ ngày nay có nồng độ cao hay thấp tùy theo tổ chức giáo dục, tùy theo tư cách cá nhân và cách cư xử giữa thầy trò. Muốn tình nghĩa sư đệ thắm thiết, thầy và trò phải: - Trước hết, thầy phải xứng đáng là thầy (có tác phong, tư cách, khả năng, có tinh thần phục vụ cao cả). - Kế đến thầy phải thành thực, tận tâm dạy bảo, thương mến trò, coi trò như gan ruột, tay chân. - Đổi lại, trò phải trung thực, tôn kính, biết ơn và làm vinh danh thầy bằng cách thực nghiệm những điều đã thụ huấn. 1.4.2. Kiến thức Vovinam Việt Võ Đạo Câu 1. Môn phái Vovinam Việt Võ Đạo ra đời từ năm nào? Do ai sáng lập? Môn phái Vovinam Việt Võ Đạo ra đời năm 1938 tại Hà Nội, do võ sư Nguyễn Lộc sáng lập. Câu 2. Hãy cho biết ngày-nơi sinh, ngày-nơi mất của Cố Võ sư Sáng tổ môn phái? Võ sư Nguyễn Lộc sinh ngày 24/5/1912 tại làng Hữu Bằng, huyện Thạch Thất, tỉnh Sơn Tây, Bắc Việt. Võ sư Nguyễn Lộc mất ngày 29/4/1960 (mồng bốn, tháng tư, năm Canh Tý) tại Sài Gòn. Di cốt hiện lưu giữ tại Tổ đường môn phái, số 31 Sư Vạn Hạnh, Phường 3, Quận 10, TPHCM, Việt Nam. Câu 3. Trước khi mất, võ sư Nguyễn Lộc giao quyền lãnh đạo và phát triển môn phái lại cho ai? Sơ lượt về người kế nhiệm võ sư Nguyễn Lộc? Trước khi lâm chung, Cố Võ sư Sáng Tổ giao quyền lãnh đạo và phát triển môn phái lại cho Võ sư Lê Sáng. Võ sư Lê Sáng là Chưởng môn môn phái Vovinam Việt Võ Đạo (1960 - 2010). Ông sinh năm 1920 tại Hà Nội, mất ngày 27/9/2010 (hai mươi, tháng tám, năm Canh Dần) tại Quận 10, TpHCM, Việt Nam. Di cốt hiện lưu giữ tại Tổ đường môn phái, số 31 Sư Vạn Hạnh, Phường 3, Quận 10, TPHCM, Việt Nam. Dưới sự lãnh đạo của Võ sư Chưởng môn Lê Sáng, trong suốt 50 năm với không ít thăng trầm, từ một môn võ phục hồi hoạt động tại Sài Gòn sau 1964, VVN- VVĐ đã phát triển vượt bậc và mở rộng đến nhiều nơi trên thế giới, trở thành một 18
  20. môn phái được đông đảo bạn bè khắp năm châu hâm mộ, xây dựng trên một hệ thống triết lý võ đạo (triết lý sống) mang tính nhân văn và thượng võ. Câu 4. Hiện nay môn phái Vovinam Việt Võ Đạo do ai lãnh đạo? Trước khi mất, võ sư Lê Sáng giao quyền lãnh đạo và phát triển môn phái lại cho một tập thể môn đồ được người lựa chọn, gọi là hội đồng võ sư chưởng quản môn phái (bao gồm 9 vị), mà người đứng đầu gọi là chánh chưởng quản. Hiện nay, võ sư Nguyễn Văn Chiếu đảm nhận vai trò chánh chưởng quản 1.5. Câu hỏi ôn tập: Câu 1: Hãy cho biết tình hình phát triển vovinam trên thế giới như thế nào? Câu 2: Anh (chị) hiểu như thế nào về đức dũng và lòng nhân? Câu 3: Hãy phân tích Vovinam có bao nhiêu phương châm tu dưỡng? Chương 2. THỰC HÀNH (30 tiết) 2.1. Chiến lược tấn công từ 6 đến 10 2.1.1. Kỹ thuật chiến lược tấn công từ 6 đến 10 - Chiến lược 6: Đứng tư thế thủ, chém tay trái lối 2 vào cổ, chém tay phải lối 2 vào cổ, bước chân trái tới trước thành trung bình tấn đấm thấp tay trái vào bụng, đạp chân phải vào ngực đối phương (H 2.1) H 2.1 - Chiến lược 7: Đứng tư thế thủ, hai tay đặt song song(tay trái úp, tay phải ngửa) vòng 2 tay chém cạnh tay từ phải sang trái vào mặt, bước chân phải lên chặn phía sau chân trái đối phương, đảo vòng 2 tay, tay trái chém vào bụng, tay phải đánh chỏ thúc vào ngực hoặc cổ đối phương. (H 2.2) 19
nguon tai.lieu . vn