Xem mẫu
- KHOA KINH TẾ VÀ QUẢN LÝ – ĐHBK HN
KHOA KINH TẾ VÀ QUẢN LÝ – ĐHBK HN
Chương 6 CHỨC NĂNG KIỂM
TRA
TRONG QUẢN TRỊ
Lập kế hoạch
hoạ Tổ chức
chứ Điều khiển
Điề khiể Kiểm tra
Dẫn đến
Xác lập mục Quyết định Định hướng, Theo dõi các ĐẠT ĐƯỢC
đích, thành lập những gì phải động viên tất cả hoạt động để
hoạ MỤC ĐÍCH
chiến lược và làm, làm như các bên tham chắc chắn rằng
chắ chắ ĐỀ RA CỦA
phát triển kế thế nào và ai sẽ gia và giải quyết chúng được
chú đượ TỔ CHỨC
hoạch cấp nhỏ làm việc đó các mâu thuẫn hoàn thành
hoà thà
hơn để điều như trong kế
hành hoạt động hoạch
hoạ
QUẢN TRỊ HỌC
- KHOA KINH TẾ VÀ QUẢN LÝ – ĐHBK HN
KHOA KINH TẾ VÀ QUẢN LÝ – ĐHBK HN
NỘI DUNG TRÌNH BÀY
Khái niệm và phân loại
Mục đích và vai trò
Quy trình kiểm tra (Phương pháp)
Tính hiệu quả trong chức năng kiểm soát
Mô hình kiểm soát hiệu chỉnh
QUẢN TRỊ HỌC
- KHOA KINH TẾ VÀ QUẢN LÝ – ĐHBK HN
KHOA KINH TẾ VÀ QUẢN LÝ – ĐHBK HN
CÁC VẤN ĐỀ CƠ BẢN
Định nghĩa
Chức năng Kiểm soát bao hàm việc giám sát tiến trình
thực hiện các kế hoạch đã vạch ra và tiến hành những
điều chỉnh cần thiết nhằm đạt được kết quả như dự
kiến
Kiểm soát là quá trình áp dụng những cơ chế và
phương pháp để đảm bảo rằng các hoạt động và thành
quả đạt được phù hợp với các mục tiêu, kế hoạch và
chuẩn mực của tổ chức
Là một quá trình hệ thống quá đó các nhà quản lý điều
chỉnh các hoạt động tổ chức để cho các hoạt động này nhất
quán với những mong đợi được đề ra trong kế hoạch và để
giúp các hoạt động này đạt đuợc những tiêu chuẩn định
trước trong iệc thực hiện.
QUẢN TRỊ HỌC
- KHOA KINH TẾ VÀ QUẢN LÝ – ĐHBK HN
KHOA KINH TẾ VÀ QUẢN LÝ – ĐHBK HN
CÁC VẤN ĐỀ CƠ BẢN
Mục đích:
Giúp các nhà quản trị nhận thấy những khuyết điểm trong hệ thống tổ
chức, trên cơ sở đó có thể tiến hành những quyết định điều chỉnh kịp
thời
Bảo đảm sự tồn tại và duy trì tính hiệu quả của mỗi cá nhân, mỗi
nhóm, mỗi bộ phận và tổ chức
Kiểm tra các người thừa hành
Kiểm tra người quản lý
Vai trò của chức năng Kiểm Soát
Là như cầu cơ bản nhằm hoàn thiện các quyết định trong quản lý
Kiểm tra nhằm đôn đốc việc thực hiện kế hoạch có hiệu quả cao
Đảm bảo quyền thực thi quyền lực của nhà tổ chức
Giúp tổ chức theo sát và đối phó với những thay đổi của môi trường
Kiểm tra tạo điều kiện cho quá trình hoàn thiện và đổi mới
QUẢN TRỊ HỌC
- KHOA KINH TẾ VÀ QUẢN LÝ – ĐHBK HN
KHOA KINH TẾ VÀ QUẢN LÝ – ĐHBK HN
LẬP KẾ HOẠCH KIỂM SOÁT
Tiến trình đưa ra các Đo lường nhằm đảm bảo
quyết định về mục tiêu, rằng các hoạt động và kết
chiến lược, chiến thuật và quả phù hợp với các kế
phân bố các nguồn lực hoạch, mục tiêu và tiêu
của tổ chức chuẩn đã được vạch ra
Vạch ra những hoạt động Giúp duy trì, rà soát các
và kết quả dự kiến hoạt động và kết quả thực
tế
Vạch ra mục tiêu và mục Cung cấp thông tin cần
đích thiết, đúng thời điểm
QUẢN TRỊ HỌC
- KHOA KINH TẾ VÀ QUẢN LÝ – ĐHBK HN
KHOA KINH TẾ VÀ QUẢN LÝ – ĐHBK HN
CÁC LOẠI KIỂM SOÁT
1. Kiểm soát phòng ngừa 2. Kiểm soát hiệu chỉnh
Nhằm làm giảm các sai lầm Nhằm thay đổi những hành
có tác dụng làm giảm nhu vi không mong muốn và đem
cầu đối với các hoạt động lại hiệu quả phù hợp với
hiệu chỉnh những tiêu chuẩn hay
Nội dung: nguyên tắc đã được vạch ra.
Định hướng và giới hạn đối Ví dụ: như quản lý không lưu
với hành vi của nhân viên và
nhà quản trị bằng cách ban 3. Kiểm soát phản hồi
hành các quy định nguyên Kiểm tra được thực hiện sau khi
tắc, các tiêu chuẩn, các thủ hoạt động đã xảy ra cung cấp
tục tuyển mộ và tuyển chọn thông tin hữu hiệu để lập kế hoạch
nhân sự, các chương trình và cải tiến động cơ thúc đẩy nhân
huấn luyện và phát triển viên
nguồn nhân lực Vd: kiểm tra kiểm toán
QUẢN TRỊ HỌC
- KHOA KINH TẾ VÀ QUẢN LÝ – ĐHBK HN
KHOA KINH TẾ VÀ QUẢN LÝ – ĐHBK HN
CÁC ĐIỂM KIỂM SOÁT
HỆ THỐNG KIỂM SOÁT
Kiểm tra
Kiểm tra Kiểm tra
Kiểm tra Kiểm soát
Kiểm soát
phòng ngừa
phòng ngừa hiệu chỉnh
hiệu chỉnh phản hồi
phản hồi
QUÁ TRÌNH
QUÁ TRÌNH
ĐẦU VÀO
ĐẦU VÀO CHUYỂN ĐỔI
CHUYỂN ĐỔI ĐẦU RA
ĐẦU RA
(Inputs)
(Inputs) ((Tranformation
Tranformation (Outputs)
(Outputs)
Process)
Process)
QUẢN TRỊ HỌC
- KHOA KINH TẾ VÀ QUẢN LÝ – ĐHBK HN
KHOA KINH TẾ VÀ QUẢN LÝ – ĐHBK HN
CÁC NGUỒN KIỂM SOÁT
Kiểm soát của các nhóm có quyền lợi trong doanh nghiệp
Từ các áp lực bên ngoài của doanh nghiệp như khách hàng, cổ đông
của doanh nghiệp, cơ quan nhà nước, định chế tài chính…
Kiểm soát của doanh nghiệp
Xuất phát từ các chiến lược và cơ chế chính thức nhằm theo đuổi
các mục tiêu của nó. Thể hiện qua các quy chế, nguyên tắc, tiêu
chuẩn, ngân sách và các hoạt kiểm tra nội bộ
Kiểm soát nhóm
Chuẩn mực và giá trị của thành viên trong nhóm chia xẻ và duy trì
thông qua những phần thưởng và hình phạt nội bộ.
Kiểm soát của cá nhân
Có ý thức
Không có ý thức
QUẢN TRỊ HỌC
- KHOA KINH TẾ VÀ QUẢN LÝ – ĐHBK HN
KHOA KINH TẾ VÀ QUẢN LÝ – ĐHBK HN
TIẾN TRÌNH KIỂM SOÁT
Bắt
Bắt
đầu
đầu
Xây dựng các tiêu chuẩn thực hiện
Xây dựng các tiêu chuẩn thực hiện
Đo lường việc thực hiện
Đo lường việc thực hiện
Nếu chấp nhận
So sánh việc thực hiện với tiêu chuẩn
So sánh việc thực hiện với tiêu chuẩn Tiếp tục
Phản hồi lại với các sai lệch
Phản hồi lại với các sai lệch Nếu có lệch lạc
QUẢN TRỊ HỌC
- KHOA KINH TẾ VÀ QUẢN LÝ – ĐHBK HN
KHOA KINH TẾ VÀ QUẢN LÝ – ĐHBK HN
CÁC BƯỚC TIẾN HÀNH
1. Xây dựng tiêu chuẩn
Là những chỉ tiêu của nhiệm vụ cần được thực
hiện hay là các chỉ tiêu thực hiện kế hoạch. Ví dụ
như: kế hoạch tiến độ sản xuất, chất lượng sản
phẩm, các chỉ tiêu tài chính
Một doanh nghiệp có thể có nhiều hệ thống tiêu
chuẩn
Yêu cầu:
Tiêu chuẩn đề ra phải hợp lý
Có khả năng thực hiện trên thực tế
QUẢN TRỊ HỌC
- KHOA KINH TẾ VÀ QUẢN LÝ – ĐHBK HN
KHOA KINH TẾ VÀ QUẢN LÝ – ĐHBK HN
CÁC BƯỚC TIẾN HÀNH
2. Đo lường việc thực hiện (tiến hành KTra)
và so sánh việc thực hiện với các tiêu chuẩn
Nếu các tiêu chuẩn được đưa ra một cách hợp lý
và có các phương tiện xác định một cách chuẩn
xác thì việc đo lường thự hiện thực tế sẽ dễ dàng
Nếu không xác định được tiêu chuẩn rõ ràng thì sử
dụng các tiêu chuẩn mờ như sự tín nhiệm của
khách hàng, sự tôn trọng các bạn hàng kinh
doanh…
QUẢN TRỊ HỌC
- KHOA KINH TẾ VÀ QUẢN LÝ – ĐHBK HN
KHOA KINH TẾ VÀ QUẢN LÝ – ĐHBK HN
CÁC BƯỚC TIẾN HÀNH
3. Phản hồi và điều chỉnh các sai lệch
Phân tích nguyên nhân gây ra sai lệch
Khắc phục bằng cách điều chỉnh sai lệch bằng
cách tổ chức lại bộ máy trong xí nghiệp, phân công
kại các bộ phận, đào tạo nhân viên, tuyển thêm lao
động, điều chỉnh mục tiêu…
QUẢN TRỊ HỌC
- KHOA KINH TẾ VÀ QUẢN LÝ – ĐHBK HN
KHOA KINH TẾ VÀ QUẢN LÝ – ĐHBK HN
CÁC BƯỚC TIẾN HÀNH KT PHẢN HỒI
ĐO LƯỜNG
LƯỜ SO SÁNH
SÁ
KẾT QUẢ
QUẢ KẾT QUẢ
QUẢ THỰC TẾ VỚI
THỰ TẾ XÁC ĐỊNH
ĐỊ
THỰC TẾ
THỰ TẾ THỰC TẾ
THỰ TẾ TIÊU CHUẨN
CHUẨ CÁC SAI LỆCH
LỆ
KẾT QUẢ
QUẢ THỰC HIỆN
THỰ HIỆ CHƯƠNG PHÂN TÍCH
TÍ
MONG MUỐN
MUỐ CÁC ĐIỀU
ĐIỀ TRÌNH ĐIỀU
ĐIỀ NGUYÊN
CHỈNH
CHỈ CHỈNH
CHỈ NHÂN
QUẢN TRỊ HỌC
- KHOA KINH TẾ VÀ QUẢN LÝ – ĐHBK HN
KHOA KINH TẾ VÀ QUẢN LÝ – ĐHBK HN
NGUYÊN TẮC KIỂM SOÁT
Tiêu chuẩn của kiểm soát hữu hiệu
Kiểm soát gắn liền với kết quả mong muốn
Kiểm soát phải căn cứ trên kế hoạch hoạt động của tổ chức và
căn cứ theo cấp bậc của đối tượng được kiểm tra.
Tính khách quan
Nếu như thực hiện kiểm tra với những định kiến có sẵn sẽ
không cho đuợc những nhận xét và kết quả đúng mức về đối
tượng được kiểm tra, kết quả có thể bị sai lệch.
Tính toàn diện
Phải lựa chọn và xác định được phạm vi kiểm tra hợp lý và
toàn diện, phải xác định đuợc trọng điểm có tính đại diện tốt
cho đối tượng cần kiểm tra.
Tính thời điểm
Tính có thể chấp nhận được
QUẢN TRỊ HỌC
- KHOA KINH TẾ VÀ QUẢN LÝ – ĐHBK HN
KHOA KINH TẾ VÀ QUẢN LÝ – ĐHBK HN
THÔNG TIN TRONG THỜI GIAN KIỂM TRA
Thông tin theo thời gian thực và kiểm tra
Để có thể thực hiện được quá trình kiểm tra, người ta cần phải thu thập các
thông tin liên quan đến việc thực hiện kế hoạch.
Thông tin theo thời gian thực là thông tin về cái xảy ra trong khi nó đang xảy ra.
Các thông tin ngày nay có thể thu thập và xử lý nhờ việc sử dụng máy tính điện
tử.
Một số người coi thông tin theo thời gian thực như là một phương tiện để tiến
hành sự kiểm tra theo thời gian thực trong các vấn đề quan trọng với nhà quản
lý. Nhưng theo sơ đồ mô tả quá trình kiểm tra, ta thấy rằng việc phân tích các
nguyên nhân gây ra sai lệch, xác định chương trình điều chỉnh và thực hiện các
chương trình điều chỉnh là những công việc đòi hỏi nhiều thời gian.
Trong trường hợp kiểm tra chất lượng sản phẩm, phải mất nhiều thời gian để
phát hiện nguyên nhân gây ra phế phẩm và cần nhiều thời gian để làm ra các
biện pháp điều chỉnh có hiệu lực. Công việc càng phức tạp thì thời gian cần thiết
cho việc điều chỉnh các sai lệch càng dài. Vì vậy đối với hầu hết các quá trình
kiểm tra, thời gian trễ là điều khó tránh khỏi.
QUẢN TRỊ HỌC
- KHOA KINH TẾ VÀ QUẢN LÝ – ĐHBK HN
KHOA KINH TẾ VÀ QUẢN LÝ – ĐHBK HN
Các kỹ thuật kiểm tra có thể chia thành hai nhóm lớn: các kỹ thuật kiểm tra ngân quỹ và các kỹ thuật
kiểm tra phi ngân quỹ truyền thống.
Các kỹ thuật kiểm tra ngân quỹ.
Quan niệm về ngân quỹ.
Ngân quỹ là cách phát biểu các kế hoạch cho một thời kỳ tương lai đã định theo các quan hệ bằng con số. Như vậy, các ngân
quỹ là các điều khoản về các kết quả định trước theo quan hệ tài chính (như ngân quỹ thu-chi, ngân quỹ về vốn) hoặc theo các
quan hệ phi tài chính (như ngân quỹ về số giờ lao dộng trực tiếp, các vật liệu, sản phẩm sản xuất ra).
Các ngân quỹ phải dựa trên các kế hoạch vì chỉ bằng cách có những mục tiêu rõ ràng, có phương án hành động để hoàn thành
chúng thì người quản lý mới có thể biết rõ bao nhiêu tiền là cần thiết để thực hiện việc mong muốn.
Bằng cách phát biểu các kế hoạch dưới dạng các quan hệ con số và tách chúng ra thành các bộ phận của doanh nghiệp, các
ngân quỹ sẽ tương quan với việc lập kế hoạch và cho phép sự giao phó quyền hạn mà vẫn không thiếu sự kiểm tra.
Các dạng ngân quỹ.
Ngân quỹ thu và chi.
• Phần nhiều các ngân quỹ giải thích rõ các kế hoạch về các nguồn thu và khoản chi cho hoạt động dưới dạng tiền tệ. Cơ bản nhất trong số này là
ngân quỹ bán – một cách thể hiện chính thức và chi tiết về sản lượng bán hàng dự kiến. Các khoản thu từ bán sản phẩm hoặc cung cấp dịch vụ
là thu nhập chính để bù đắp các chi phí hoạt động và tạo ra lợi nhuận.
• Các ngân quỹ chi cho hoạt động của một doanh nghiệp có thể có nhiều như các phân loại chi phí trong sơ đồ hạch toán của doanh nghiệp. Các
ngân quỹ này có thể liên quan đến khoản mục chi phí như: nhân công, nguyên vật liệu, năng lượng, văn phòng, tiêu thụ,... Người ta thường lập
ngân quỹ về các khoản mục chính và gộp các khoản mục khác với nhau trong một bảng tổng kết kiểm tra.
Ngân quỹ về thời gian, không gian, vật liệu, sản phẩm.
• Một số ngân quỹ nếu thể hiện dưới dạng vật lý thì tốt hơn dưới dạng tiền tệ. Mặc dù những ngân quỹ đó cũng thường được đổi sang dạng tiền tệ
nhưng chúng sẽ có ý nghĩa nhiều hơn vào một giai đoạn nhất định trong khi lập kế hoạch và kiểm tra nếu chúng được biểu thị dưới dạng số
lượng vật lý.
• Hầu hết các doanh nghiệp đều lập ra ngân quỹ về sản lượng và dưới đó các bộ phận sản xuất lại lập ra ngân quỹ về phần sản lượng theo thành
phần của sản phẩm cuối cùng. Ngoài ra, việc lập ngân quỹ về lao động theo số giờ lao động hoặc số ngày lao động với loại hình lao động cần
thiết cũng khá phổ biến. Các ngân quỹ này không thể biểu thị tốt dưới dạng tiền tệ do chi phí bằng tiền có thể không đo lường chính xác các
nguồn lực được dùng hoặc các kết quả dự định.
Ngân quỹ chi tiêu cơ bản.
• Các ngân quỹ chi tiêu cơ bản vạch ra những khoản chi tiêu cơ bản đặc trưng cho việc đầu tư: thuê, mua nhà xưởng, thiết bị máy móc, kho
tàng,... cho dù là dài hạn hay ngắn hạn, các ngân quỹ này đòi hỏi phải thận trọng trong việc đưa ra kế hoạch chi tiêu vốn của doanh nghiệp.
• Do tiền vốn là một trong những yếu tố hạn chế nhất của mọi doanh nghiệp và phải mất một thời gian dài doanh nghiệp mới có thể thu hồi được
các khoản đầu tư vào thiết bị máy móc thông qua khấu hao nên tính bất biến và rủi ro ở đây là cao. Vì vậy, các ngân quỹ chi tiêu cơ bản thường
gắn chặt với việc lập kế hoạch theo quy mô thời gian khá dài.
QUẢN TRỊ HỌC
- KHOA KINH TẾ VÀ QUẢN LÝ – ĐHBK HN
KHOA KINH TẾ VÀ QUẢN LÝ – ĐHBK HN
Ngân quỹ tiền mặt.
Quỹ tiền mặt là số dự đoán về các khoản thu và chi tiền mặt mà nhờ đó đo được lượng tiền mặt thực tế có được. Cho dù có
được gọi là một ngân quỹ hay không thì quỹ tiền mặt cũng là một cách kiểm tra quan trọng của doanh nghiệp. Khả năng có tiền
mặt để đáp ứng các khoản nợ đến kỳ thanh toán là yêu cầu đầu tiên cho sự tồn tại của doanh nghiệp. Lợi nhuận cũng sẽ thấp
khi lượng tiền mặt đọng trong dự trữ, lưu thông, máy móc hoặc các tài sản không phải là tiền mặt khác. Việc lập ngân quỹ tiền
mặt cũng cho thấy khả năng thừa tiền mặt, từ đó lập kế hoạch đầu tư sinh lãi với các khoản tiền dôi ra.
Ngân quỹ biến đổi.
Có lẽ cứng nhắc là mối nguy hại lớn nhất khi sử dụng các phương pháp ngân quỹ. Ngay khi việc lập ngân quỹ không được
dùng để thay thế cho việc quản lý thì việc quy các kế hoạch về các giá trị con số cũng có thể đem lại những sai lầm. Ví dụ, các
sự kiện thực tế cho thấy phải sử dụng loại nguyên liệu này nhiều hơn loại khác, hoặc khi lượng bán ra thực tế quá khác biệt so
với mức dự báo. Lúc đó các ngân quỹ trở nên lạc hậu và nếu các nhà quản lý vẫn bị các ngân quỹ ràng buộc thì lợi ích của ngân
quỹ sẽ suy giảm hoặc triệt tiêu ngân quỹ không còn phù hợp. Điều này đặc biệt đúng ở những nơi mà ngân quỹ được thiết lập
trước cho những thời kỳ dài.
Do sự nguy hiểm của tính cứng nhắc trong các ngân quỹ và do tính linh hoạt tối đa phù hợp với tính hiệu quả trong lập kế
hoạch nên người ta ngày càng chú ý đến các ngân quỹ biến đổi (ngân quỹ linh hoạt).
Ngân quỹ biến đổi được thiết kế để có thể thay đổi được khi khối lượng bán hoặc các thông số liên quan đến sản lượng thay
đổi. Vì vậy, phần lớn chúng được giới hạn trong việc áp dụng cho các ngân quỹ chi tiêu.
Ngân quỹ biến đổi dựa trên sự phân tích các khoản mục chi tiêu để xem xét các chi phí riêng lẻ thay đổi như thế nào theo khối
lượng sản xuất.
Một số chi phí không thay đổi theo khối lượng, đặc biệt trong thời kỳ ngắn hạn. Chúng là các chi phí cố định như hao mòn,
thuế tài sản, bảo hiểm, chi phí bảo dưỡng thiết bị, chi phí duy trì doanh nghiệp,...
Một số chi phí khác biến đổi theo sản lượng như nguyên vật liệu, lao động trực tiếp, chi phí bán hàng,...
Làm cho việc kiểm tra ngân quỹ hoạt động.
Muốn cho việc kiểm tra ngân quỹ hoạt động tốt, người quản lý phải lưu ý rằng các ngân quỹ chỉ được thiết kế như một công cụ
và không thể thay thế được cho việc quản lý.
Để có kết quả tốt nhất, việc lập và quản lý ngân quỹ cần phải có được sự hỗ trợ toàn tâm toàn ý của các nhà quản lý cấp cao.
Việc lập ra một cơ quan quản trị bằng một chỉ thị sau đó lãng quên đi sẽ dẫn đến việc lập ngân quỹ một cách không chắc chắn
và dồn trách nhiệm cho nhà quản lý cấp dưới. Họ sẽ phải thực hiện một thủ tục khác hoặc soạn thảo ra hàng loạt hồ sơ, giấy tờ.
Ngược lại, nếu ban quản lý cấp cao thực sự hỗ trợ cho việc lập ngân quỹ và đặt nền tảng chắc chắn cho ngân quỹ dưạ trên kế
hoạch, yêu cầu các bộ phận, các chi nhánh thiết lập và bảo vệ ngân quỹ của họ thì lúc đó ngân quỹ sẽ thu hút được sự quản lý
năng động trong toàn doanh nghiệp.
Các ngân quỹ cung cấp phương tiện giao phó quyền hạn mà vẫn kiểm tra được nhưng nếu nó quá chi tiết và cứng nhắc thì thực
tế chỉ một ít quyền hạn được giao phó.
Việc kiểm tra ngân quỹ là để hoạt động, do đó người quản lý cần có những thông tin về việc thực hiện trên thực tế. Thông tin
này không có sẵn mà phải được thu thập sao cho người quản lý thấy được họ đang làm việc đến mức độ nào, tránh được những
sai lệch về ngân quỹ.
QUẢN TRỊ HỌC
- KHOA KINH TẾ VÀ QUẢkiÓm–tra
KHOA KINH kü VÀ QUẢNLÝ – ĐHBK HN
C¸c TẾ thuËt N LÝ ĐHBK HN
Các biện pháp kiểm tra phi ngân quỹ
Có nhiều biện pháp kiểm tra phi ngân quỹ truyền thống, trong đó quan trọng nhất là: căn cứ và số
liệu thống kê, các báo cáo và phân tích chuyên môn, kiểm tra tác nghiệp và quan sát cá nhân.
Các số liệu thống kê.
• Các số liệu thống kê về nhiều khía cạnh của một hoạt động và cách thể hiện rõ ràng các số liệu thống kê rất quan trọng
cho việc kiểm tra.
• Các nhà quản lý hiểu được các số liệu thống kê tốt nhất dưới dạng biểu đồ vì người ta có thể thấy được mối liên hệ và
các xu thế biến đổi của các số liệu. Ngoài ra, nếu muốn các số liệu có ý nghĩa thì cần so sánh chúng với một số tiêu
chuẩn đã có. Ví dụ, việc tăng/giảm 1% lượng tiêu thụ hoặc chi phí có ý nghĩa gì? Tiêu chuẩn so sánh? Sự thay đổi đó
nghiêm trọng tới mức nào?...
Các báo cáo và phân tích chuyên môn.
• Các báo cáo và phân tích chuyên môn giúp cho kiểm tra trong phạm vi các vấn đề riêng lẻ. Mặc dù báo cáo thống kê và
kế toán thường cung cấp cho ta những thông tin rất tốt nhưng vẫn có những phạm vi mà ở đó chúng không đủ và không
phù hợp.
Kiểm tra tác nghiệp.
• Kiểm tra tác nghiệp là công cụ hữu hiệu để kiểm tra quản lý. Theo nghĩa rộng kiểm tra tác nghiệp là sự đánh giá thường
xuyên và độc lập được thực hiện bởi ban kiểm tra nội bộ về kế toán, tài chính và các hoạt động khác của doanh nghiệp.
Mặc dù thường được hạn định trong việc kiểm tra sổ sách kế toán nhưng công tác kiểm tra tác nghiệp bao gồm việc
đánh giá các hoạt động nói chung, cân nhắc so sánh các kết quả thực tế và kết quả dự định.
• Như vậy, ngoài việc đảm bảo rằng các sổ sách kế toán phản ánh đúng các sự việc, các nhà kiểm tra tác nghiệp còn đánh
giá về các chính sách, các thủ tục, việc sử dụng quyền hành, chất lượng quản lý,...
Quan sát cá nhân.
• Không nên coi nhẹ tầm quan trọng của việc kiểm tra thông qua sự quan sát cá nhân. Các ngân quỹ, các biểu đồ thống kê
đều rất quan trọng, nhưng nếu người quản lý chỉ dựa hoàn toàn vào các biện pháp này mà ngồi trong phòng kín thì khó
có thể thực hiện được việc kiểm tra, đo lường, điều chỉnh.
• Nhà quản lý có nhiệm vụ làm cho các mục tiêu được hoàn thành bởi những con người cụ thể. Cho dù có nhiều biện
pháp khoa học hỗ trợ cho việc đảm bảo rằng mọi người đang thực hiện những công việc đã định theo kế hoạch nhưng
quan sát cá nhân vẫn là biện pháp kiểm tra cần thiết.
• Có rất nhiều thông tin mà nhà quản lý có thể thu nhận được nhờ việc quan sát cá nhân, ngay cả khi đi dạo ngẫu nhiên
qua một phân xưởng hay một phòng.
QUẢN TRỊ HỌC
nguon tai.lieu . vn