Xem mẫu
- BÀI GIẢNG NGỮ VĂN LỚP 11
TƯƠNG TƯ – NGUYỄN BÍNH
- Nguyễn Bính (tên thật là Nguyễn Trọng Bính;
1918–1966) là một nhà thơ lãng mạn nổi tiếng của
Việt Nam. Thơ ông phần lớn là thơ tình nhưng mang
một sắc thái quê mùa, dân dã riêng biệt. Cùng với
Xuân Diệu, ông được mệnh danh là "Vua thơ tình“.
- Theo tài liệu được Hội Nhà Văn ở
Hà Nội công bố về tiểu sử của
ông: thuở nhỏ Nguyễn Bính
không được đi học ở nhà trường
mà chỉ được học ở nhà với cha là
ông đồ nho Nguyễn Đạo Bình và
đồng thời cũng được người cậu
ruột là Bùi Trinh Khiêm dạy
kèm. Ông mồ côi mẹ rất sớm,
cha đi bước nữa, gia đình túng
quẫn, nên khi lên 10 tuổi đã phải
theo anh ruột là Nguyễn Mạnh
Phác ra Hà Nội sinh sống. Thời
gian này ông được người anh dạy
học ở nhà.
- Năm 13 tuổi ông được giải nhất trong cuộc thi hát trống quân đầu
Bài thơ của ông được đăng báo đầu tiên tác:
xuân ở hội làng với sáng
là bài Cô hái mơ.
...Anh đố em này:
Làng ta chưa vợ mấy người ?
Chưa chồng mấy ả, em thời biết không
Đố ai đi khắp tây đông,
Làm sao kiếm nổi tấm chồng như chúng anh đây?
Làm sao như rượu mới say,
Như giăng mới mọc, như cây mới trồng ?
Làm sao như vợ như chồng ?
Làm sao cho thỏa má hồng răng đen
Làm sao cho tỏ hơi đèn ?
Làm sao cho bút gần nghiên suốt đời ?
Làm sao ? anh khen em tài ?
Làm sao ? em đáp một lời làm sao ... ?
- Năm 1937 Nguyễn Bính gửi tập thơ Tâm hồn tôi tới dự
thi và đã được giải khuyến khích của nhóm Tự lực
văn đoàn.
- Những năm đầu thập niên 1940, Nguyễn Bính nhiều lần lưu lạc vào miền
Nam. Lúc này ông đổi tên là Nguyễn Bính Thuyết.
- Năm 1943, Nguyễn Bính lại đi vào miền Nam lần thứ ba và đã
gặp Đông Hồ, Kiên Giang. Có lúc ông cư ngụ trong nhà Kiên
Giang. Đó là thời ông viết những bài Hành Phương Nam, Tặng
Kiên Giang, Từ Độ Về Đây... Chính vì vậy ông được gọi là "thi
sỹ giang hồ".
Từ độ về đây sống rất nghèo
Bạn bè chỉ có gió trăng theo
Những thằng bất nghĩa xin đừng tới
Hãy để thềm ta xanh sắc rêu.
(Từ Độ Về Đây - 1943)
- Năm 1947, Nguyễn Bính tham gia kháng chiến chống Pháp ở miền Nam.
Đến năm 1954, khi Hiệp định Genève chia đôi đất nước, Nguyễn Bính
tập kết về Bắc năm 1955 và được bố trí phục vụ trong Hội Nhà Văn ở Hà
Nội một thời gian.
- Năm 1956, ông được giao
nhiệm vụ phụ trách tờ
Trăm Hoa (nguyên văn
trong tài liệu của Hội Nhà
Văn) và tham gia vào
phong trào Nhân văn -
Giai phẩm.
- Đến năm 1958, bị buộc chuyển về tỉnh nhà Nam Định,
làm việc tại Ty Văn hoá Nam Định cho đến khi mất.
- Con người Nguyễn Bính:
Ông là một con người
nhạy cảm với thời đại đầy
biến động,ông cũng là
người muốn bảo tồn và
duy trì những giá trị
truyền thống.Là một nhà
thơ mới nhưng ông lại trở
về đào sâu vào truyền
thống dân gian nên đã
đem đến cho thơ mình
một vẻ đẹp Chân quê.
- Tương tư
Nguyễn Bính
- Về bài thơ :
b.Bố cục:Bài thơ chia làm 3 Hoàng Mai (quận
a.Bài thơ được viết tại làng phần
+Phần 1:Bốnngàythơ đầu-Khơi nguồn và được
Hoàng Mai câu nay) vào năm 1939 tương
tư-Căn bệnh của Lỡ bước đơn phương (1940).
đưa vào tập thơ tình yêu sang ngang của tôi.
+Phần 2:từ Hai thôn chung lại..đến…Gặp
nhau?-là sự giãi bày tâm trạng tương tư.
+Phần 3:Bốn câu thơ cuối-Trở lại nỗi nhớ của
Thôn Đoài của Cau liên phòng.
- Tương tư
Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông,
Một người chín nhớ mười mong một người.
Gió mưa là bệnh của giời,
Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng.
Hai thôn chung lại một làng,
Cớ sao bên ấy chẳng sang bên này ?
Ngày qua ngày lại qua ngày,
Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng.
Bảo rằng cách trở đò giang
Không sang là chẳng đường sang đã đành
Nhưng đây cách một đầu đình,
Có xa xôi mấy mà tình xa xôi...
Tương tư thức mấy đêm rồi,
Biết cho ai biết, ai người biết cho !
Bao giờ bến mới gặp đò ?
Hoa khuê các, bướm giang hồ gặp nhau ?
Nhà em có một giàn giầu
Nhà anh có một hàng cau liên phòng.
Thôn Đoài thì nhớ thôn Đông
Cau thôn Đoài nhớ giầu không thôn nào ?
Nguyễn Bính
- Tương tư là tâm trạng thương nhớ
trong tình yêu đôi lứa,thường là tình
yêu đơn phương xa cáchđó là một
phức hợp cảm xúc khác nhau với
những diễn biến nhiều khi trái ngược
nhau mà thống nhất rất khó nắm bắt
và lí giải.
- Khổ thơ đầu nói lên nỗi “nhớ”, nỗi “mong”
của kẻ đang yêu, nỗi nhớ mong đầy ắp trong
lòng, đã thành “bệnh” bởi lẽ “tôi yêu nàng”:
Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông
Một người chín nhớ mười mong một người
Gió mưa là bệnh của giời
Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng
- Thôn Đoài và thôn Đông là nơi mà nhà Tôi và
nhà Nàng đang ở.Cách sử dụng hoán dụ-nhân hoá kết
hợp với thành ngữ và nghệ thuật phân hợp số từ-vị
ngữ (Chín,mười,nhớ mong = Chín nhớ mười mong)
làm cho lời thơ trở nên bình dị mà hồn nhiên đằm
thắm.Nỗi nhớ ấy không chỉ đầy ắp,da diết trong lòng
chàng trai đa tình mà còn tràn ngập cả xóm thôn,cả
thôn Đông lẫn thôn Đoài.
Nỗi niềm Tương tư được Nguyễn Bính thể
hiện bằng những sắc thái muôn thuở của
chuyện trai gái yêu nhau mà phải xa cách.Có
nhớ nhung,có trách móc,có hờn giận và dĩ
nhiên có cả khắc khoải đợi chờ,nỗi niềm tương
tư ấy thật tha thiết,chân thành.
- Yêu cô gái mà chàng trai đã thành bệnh
cũng như bệnh nắng mưa của trời vậy.Cách so
sánh bệnh giời với bệnh tương tư của tôi yêu
nàng Nguyễn Bính đã diễn tả một cách hồn
nhiên,thú vị về nỗi buồn tương tư trong tình
yêu là lẽ tự nhiên,là tất yếu.Yêu thì mong được
gần nhau,mà xa nhau thì lại nhớ,yêu lắm thì
nhớ nhiều,mà nhớ nhiều thì càng tương tư.
- Sự giãi bày tâm trạng tương tư của chàng
trai
Hai thôn chung lại một làng
Cớ sao bên ấy chẳng sang bên này?
…
Bao giờ bến mới gặp đò?
Hoa khuê các,bướm giang hồ gặp nhau?
- Trước hết đó là nỗi băn khoăn,thắc
mắc.Tuy chẳng được ở gần nhau Bên
giậu mồng tơi,Bên giàn thiên lý…nhưng
tôi với nàng gần gũi biết bao vì Hai thôn
chung lại một làng,Có mong,có nhớ mà
chẳng được đáp lại nên băn khoăn,thắc
mắc biết ngỏ cùng ai bây giờ?
nguon tai.lieu . vn