Xem mẫu

  1. Bài giảng môn thức ăn tự nhiên
  2. Mục Lục CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ THỨC ĂN TỰ NHIÊN ................................................ 3 1.1 VAI TRÒ CỦA THỨC ĂN TỰ NHIÊN ĐỐI VỚI NUÔI TRỒNG THỦY SẢN ...... 3 1.2 Kích thước miệng ấu trùng ở pha nuôi dưỡng đầu .................................................... 5 CHƯƠNG 2: VI TẢO ........................................................................................................ 7 2.1 GIỚI THIỆU ................................................................................................................ 7 2.1.1 Các loài tảo nuôi trồng chủ yếu ................................................................................ 7 2.1.2 Giá trị dinh dưỡng của vi tảo .................................................................................... 8 2.2.1 Tảo Chlorella ........................................................................................................... 10 2.2.2 Tảo Dunaliella ......................................................................................................... 11 2.2.3 Tảo Spirulina ........................................................................................................... 12 2.2.4 Tảo khuê .................................................................................................................. 13 2.2.4.1 Các giống nuôi trồng chủ yếu: ............................................................................. 13 2.2.4.2 Đặc điểm tảo khuê ................................................................................................ 13 2.2.4.3 Kĩ thuật nuôi tảo Chaetoceros sp và Skeletonema costatum :.............................. 14 2.2.4.4 Vai trò của tảo khuê trong nuôi trồng thủy sản: ................................................. 16 CHƯƠNG 3: LUÂN TRÙNG (ROTIFERS) .................................................................. 17 3.1 Đặc điểm sinh học của luân trùng ............................................................................. 17 3.1.1 Vị trí phân loại......................................................................................................... 17 3.1.2 Đặc điểm hình thái .................................................................................................. 17 3.1.3 Phân bố và dinh dưỡng của luân trùng .................................................................. 17 3.1.4 Sinh trưởng và dinh dưỡng ..................................................................................... 18 3.1.5 Đặc điểm sinh sản và vòng đời của luân trùng ...................................................... 18 3.2 Kỹ thuật nuôi luân trùng............................................................................................... 19 3.2.1 Điều kiện nuôi.......................................................................................................... 19 3.2.2 Các loại thức ăn nuôi luân trùng và cách cho ăn ........................................................ 20 3.2.4 Các hệ thống nuôi luân trùng ................................................................................. 21 3.3 Giá trị dinh dưỡng của rotifer ................................................................................... 23 3.4 Rotifer trong nuôi trồng thủy sản.............................................................................. 24 CHƯƠNG 4: ARTEMIA ................................................................................................. 24 4.2 Vòng đời và đặc điểm sinh học Artemia .................................................................... 24 4.4 Giá trị dinh dưỡng ..................................................................................................... 25 4.5 Kỹ thuật nuôi Artemia trên ruộng muối ................................................................... 27 4.5.1 Thời vụ sản xuất Artemia ....................................................................................... 28 4.5.2 Xây dựng ao nuôi Artemia: .................................................................................... 28 4.5.3 Quá trình thu gom nước mặn để thả Artemia ....................................................... 28 4.5.4 Các yêu cầu tối thiểu cho ao trước khi xuống giống .............................................. 28 4.5.5 Những biện pháp chính trong quản lý ao nuôi: ..................................................... 29 4.5.6 Thu Hoạch và sơ chế sản phẩm .............................................................................. 30 CHƯƠNG 5: CÁC ZOOPLANKTON KHÁC ............................................................... 32 5.1 Copepod ...................................................................................................................... 32 5.2 Daphnia và Moina ...................................................................................................... 33 5.3 Nematode .................................................................................................................... 35 5.4 Ấu trùng bánh xe (Trochophora larvae) ................................................................... 36 CHƯƠNG 6: QUẢN LÝ AO NUÔI ĐỂ PHÁT TRIỂN THỨC ĂN TỰ NHIÊN.......... 36 6.1 Yếu tố vật lý ................................................................................................................ 36 6.2 Yếu tố sinh học ........................................................................................................... 36 6.3 Yếu tố hoá học ............................................................................................................ 37 TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................................... 38 ĐH Bạc Liêu 2 Nuôi thức ăn tự nhiên
  3. CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ THỨC ĂN TỰ NHIÊN 1.1 VAI TRÒ CỦA THỨC ĂN TỰ NHIÊN ĐỐI VỚI NUÔI TRỒNG THỦY SẢN Thức ăn tự nhiên hay thức ăn sống (natural food, live food ) là các phiêu sinh (plankton). Phiêu sinh chính là chuỗi thức ăn sơ cấp và thứ cấp cho hầu hết động vật nước. Phiêu sinh có hai nhóm, đó là phiêu sinh thực vật (phytoplankton) và phiêu sinh động vật (zooplankton). Phytoplankton được coi là sinh vật tự dưỡng, bởi vì chúng có thể sử dụng nguồn cacbon, nitơ đơn giản và ánh sáng mặt trời để sinh trưởng và phát triển; chúng là điểm xuất phát của chuỗi thức ăn. Zooplankton được coi là sinh vật dị dưỡng, chúng ăn những sinh vật tự dưỡng và các sinh vật dị dưỡng khác. Zooplankton là nguồn thức ăn quan trọng của ấu trùng tôm và cá trong tự nhiên hay nuôi trồng. Thức ăn tự nhiên đóng vai trò rất quan trọng, quyết định sự thành công trong ương nuôi nhiều loài động vật thủy sản, đặc biệt là ở giai đoạn ấu trùng. Nghiên cứu đặc điểm sinh học, kỹ thuật nuôi một số loại thức ăn tươi sống cho động vật thủy sản từ lâu đã được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm. Các đối tượng chủ yếu đang được quan tâm nghiên cứu như: Vi tảo, luân trùng, giáp xác râu ngành, Artemia, trùng chỉ. Nghề nuôi giáp xác, cá biển và nhuyễn thể đang ngày càng phát triển mạnh, vì thế, nhu cầu con giống đang ngày gia tăng và cần được giải quyết. Trong sản xuất giống, thức ăn và kỹ thuật cho ăn khi ương ấu trùng là vấn đề rất quan trọng. Ngày nay, mặc dù có nhiều kỹ thuật tiên tiến trong sản xuất thức ăn nhân tạo cho ấu trùng, nhưng những thức ăn tươi sống như tảo, luân trùng, giáp xác râu ngành, Artemia.. . vẫn được xem là thức ăn vô cùng quan trọng và có tiềm năng rất lớn trong sản xuất giống. Việc nuôi và sử dụng các sinh vật làm thức ăn này đã có một lịch sử lâu đời ở nhiều nước và ngày nay đang được áp dụng rộng rãi tên toàn thế giới. Trong những năm 70, sản xuất của các trại cá và tôm hầu như dựa chủ yếu vào việc đánh bắt những cá giống (giai đoạn cá bột) sống trong tự nhiên. Tuy nhiên, từ sau khi kỹ thuật sản xuất ấu trùng từ đàn bố mẹ trở nên phổ biến thì hàng tỷ ấu trùng cá, ấu trùng thân mềm và giáp xác đã được sản xuất trong các trại giống trên toàn thế giới. Ấu trùng là những sinh vật còn rất nhỏ, yếu đuối và chưa phát triển đầy đủ về mặt sinh lý như kích thước miệng còn nhỏ, giác quan và hệ thống tiêu hoá chưa hoàn thiện. Những yếu tố này hạn chế việc lựa chọn và sử dụng thức ăn thích hợp trong những pha nuôi dưỡng đầu tiên của ấu trùng. Đối với tảo, hai loài Isochrisys galbana và Pyramimonas grossii đầu tiên được Bruce và ctv báo cáo đã phân lập và nuôi đơn chúng dùng làm thức ăn trong nuôi trồng thủy sản, đặc biệt là dùng cho nuôi ấu trùng trai, hầu. Tiếp theo đó, là kết quả nuôi thành công tảo khuê cho nhiều loài động vật không xương sống khác nhau của Allen và Nelson, 1910 (Ryther và Golman, 1975). Đến năm 1941, khi Matsue tìm ra phương pháp phân lập và nuôi cấy tảo thuần loài Skeletonema costatum thì loài tảo này đã được Hudinaga dùng làm thức ăn cho ấu trùng tôm Penaeus japonicus và đã tăng tỉ lệ sống của ấu trùng ở giai đoạn lên 30%, thay vì 1% so với các kết quả trước đây (Liao, 1983). Phương pháp nuôi tảo khuê cho ấu trùng tôm của Hudinaga được gọi là “phương pháp nuôi cùng bể” và sau đó phương pháp này được Loosanoff áp dụng trong ương nuôi ấu trùng hai mảnh vỏ. Từ những năm 1940, người ta rất quan tâm đến nuôi sinh khối tảo, không chỉ dùng cho nghề nuôi thủy sản mà còn vì nhiều mục đích khác, như: cải tạo đát, lọc nước thải, nguồn thực phẩm cho con người hay thức ăn tươi sống. Beijerinck đã nghiên cứu nuôi tảo Chlorella vulgaris lần đầu tiên trong ống nghiệm và đĩa petri. Nhiều nghiên cứu tiếp theo được tiến hành và cho đến năm 1948-1950, một công trình đầu tiên chuyển phương pháp nuôi cấy trong phòng thí nghiệm ra qui mô sản xuất lớn đã được thực hiện bởi nhà khoa học Litter, của Cambridge (Soeder, 1986). Tuy nhiên, về sau nuôi đại trà tảo Chlorella phát triển ĐH Bạc Liêu 3 Nuôi thức ăn tự nhiên
  4. chủ yếu là ở Đông Nam Châu Á, đặc biệt là ở Nhật, Trung Quốc, Đài Loan (Richmon, 1986). Ví dụ: Ở Đài Loan, nuôi sản xuất tảo được hình thành vào năm 1964, đến năm 1977, đã có 30 trại sản xuất với công suất 200 tấn/tháng, sản xuất khoảng 1.000 tấn/năm. Các loài tảo khác như Dunadiella, Scenedesmus, Spirulina.. . cũng được nghiên cứu và phổ biến ra qui mô sản xuất. Số liệu thống kê cho thấy, tổng sản lượng hàng năm của tảo Spirulina trên thế giới là 850 tấn, trong đó, Mexicô đóng góp 300 tấn, Đài Loan: 300 tấn, Hoa Kỳ: 90 tấn, Thái Lan 60 tấn, Nhật Bản :40 tấn và Israel: 30 tấn (Richmon, 1986). Để phục vụ cho mục đích nuôi thủy sản, nhiều loài tảo khác cũng được nghiên cứu nuôi trong điều kiện phòng thí nghiệm hoặc ở qui mô sản xuất. Wendy và Kevan, 1991, đã tổng kết: ở Hoa kỳ, các loài Thalasiossira pseudomonas, Skeletonema, Chaetoceros calcitrans, Chaetoceros mulleri, Nannochloropsis ocula, Cchlorella minutissima... được nuôi để làm thức ăn cho luân trùng, ấu trùng hai mảnh vỏ, ấu trùng tôm và cá theo hương pháp từng đợt hoặc bán liên tục trong những bể composite 2.000-25.000 lít. Ở Washington, năng suất tảo loài Thalasiossira pseudomonas có thể đạt 720 kg khô/24.000 tấn/8 tháng ; còn ở Hawaii, năng suất loài Nanochlopsis đạt khoảng 2,2 triệu lít/năm. Trung Quốc bắt đầu nghiên cứu nuôi tảo từ những năm 1940. Nhưng mãi đến 1980, chỉ có hai loài Phaeodactylum triconutum và Tetraselmis subcordiformis là đối tượng nuôi dùng trong ương ấu trùng tôm. Về sau, có nhiều loài đã được phân lập để nuôi cấy. Song, những loài nuôi chính bao gồm Isochrisys galbana, Pavlova viridi, Chaetoceros muelleri, Phaeodactylum triconutum, Tetraselmis dùng cho ấu trùng tôm Penaeus chinensis và Argopecten. Chúng được nuôi bằng phương pháp thu từng đợt. Năng suất nuôi của Isochrisys galbana có thể đạt 4,8 x 1015 tế bào/năm. Ở Đài Loan, các đối tượng nuôi chính là Nannochloropsis oculata, Tetraselmis, Chlorella sp., dùng cho ương nuôi ấu trùng họ tôm he (Penaeus), loài Isochrysis galbana trong ương nghêu...Riêng loài Skeletonema costatum, sản lượng nuôi có thể đạt tới 9.000 tấn/năm. Nuôi tảo ở Nhật cũng rất quan trọng với nhiều đối tượng nuôi và bằng phương pháp thu từng đợt hoặc bán liên tục: Chaetoceros sp., Penaeus japonicus và Metapenaues ensis, Isochrysis sp. và Pavlova lutheri dùng cho hai mảnh vỏ, Tetraselmis sp., Nanochloropsis oculata, Chlammydomonas sp. cho luân trùng Brachionus plicatilis. Nuôi tảo khuê cũng rất phổ biến ở Thái Lan, nhất là loài Skeletonema costatum và Chaetoceros calcitrans dùng cho ấu trùng tôm. Bể nuôi thường là bể composite có thể tích 1.000 lít hay bể ximăng 4.000 lít. Ước đoán năng suất đạt được khoảng 3 x 1012 tế bào/tháng. Ở nước ta, hiện nay đã có nhiều cơ quan nghiên cứu đã nhập giống, phân lập, lưu giữa và nuôi sinh khối các loài tảo thuần cho mục đích nghiên cứu và sản xuất thực nghiệm. Song, thực tế, các trại sản xuất vẫn còn sử dụng chủ yếu là các loại tảo tự nhiên do chưa có điều kiện phòng thí nghiệm lưu giống thuần tại trại và công việc này cũng khá phức tạo đối với trại sản xuất kinh doanh. Bên cạnh tảo phiêu sinh, luân trùng (hay còn gọi là trùng bánh xe), loài Brachinus plicatilis cũng đóng vai trò quan trọng trong nghề nuôi trồng thủy sản, đặc biệt chúng là thức ăn cho ấu trùng của cá biển có vây. Ở nhiều nước như Nhật Bản, Đài Loan, Thái Lan, nuôi luân trùng đã trở thành nghề nuôi thương phẩm. Quá trình nuôi luân trùng của những nước này mang nết đặc trưng riêng của mỗi quốc gia. Ở Nhật, Brachionus plicatilis lần đầu tiên được Katashi (1995) nghiên cứu và phát hiện như một loại thức ăn lý tưởng cho ấu trùng cá biển Ayu (Plecoglossus altivelia). Năm 1964, trại Yashima bắt đầu nuôi sinh khối Brachionus plicatilis, sau đó, năm 1965, chúng được dùng rộng rãi cho loài cá Pagrus major và là thức ăn có giá trị cao. Hiện nay, nuôi sản xuất Brachionus plicatilis dòng S và L là mục tiêu của nghề nuôi cá Pagrus major, Japanese ĐH Bạc Liêu 4 Nuôi thức ăn tự nhiên
  5. flounder, Japanese sweet fish...Với qui mô sản xuất lớn, nuôi luân trùng ở Trung Tâm Nuôi Cá có thể 4-8 tỷ con/ngày. Ở Hoa Kỳ, Theilaccker và McMaster năm 1971, đã công bố lần đầu tiên kết quả nghiên cứu về Brachionus plicatilis là một thức ăn tuyệt vời cho ấu trùng cá biển (Wendy và Kenvan, 1991). Tuy nhiên, nuôi luân trùng đến nay vẫn ở qui mô thí nghiệm, chủ yếu phục vụ cho ương nuôi các loài cá đối, cá măng. . . Sản lượng nuôi mỗi ngày thường đạt 100-500 triệu con. Tại Trung Quốc, hầu hết các nghiên cứu về luân trùng Brachionus plicatilis làm thức ăn cho ấu trùng cá biển được tiến hành từ năm 1980. Đến nay, nuôi luân trùng với qui mô lớn cho nghề nuôi cá chẽm. Nuôi luân trùng ở Đài Loan đã trở thành nghề nuôi thương phẩm phục vụ cho việc sản xuất của 11 loài cá biển. Sản lượng trung bình ước đoán khoảng 1 tỉ cá thể/ngày (Liao, 1991). Sản xuất luân trùng ở Thái Lan cũng được Kong Keo báo cáo năm 1991, với sản lượng 166 triệu con/ngày. Luân trùng đực dùng làm thức ăn cho đối tượng nuôi thủy sản chính như: cá chẽm, cá mú, tôm càng xanh. Tóm lại, nuôi tảo và luân trùng là một hoạt động rất quan trọng tại các trại sản xuất giống, nhằm cung cấp thức ăn cho ấu trùng của nhiều đối tượng thủy sản khác nhau. Vì vậy, để phục vụ cho sự phát triển của nghề nuôi thủy sản thì việc nghiên cứu và sử dụng hai loại thức ăn này là rất cần thiết. Artemia từ lâu đã được con người biết đến, song đến những năm 1930 người ta mới xác định đây là thức ăn tuyệt vời cho ấu trùng tôm cá. Từ đó, Artemia trở thành mặt hàng thương mại rất có giá trị, và đặc biệt phát triển từ những năm 1960-1970 do sự phát triển của nghề nuôi thủy sản. Nghiên cứu cơ bản và ứng dụng Artemia đầu tiên được bắt đầu vào những năm 1968 ở Bỉ. Hiện nay, nghề nuôi Artemia đang phát triển với nhiều nguồn ở nhiều quốc gia như San Francisco Bay (Hoa Kỳ), Macau (Brazil), Shark Bay (Úc), Chaplin Lake (Canada), Buenos Aires (Argentina), Lavaldue (Pháp), Tientsin (Trung Quốc), Margherita di Savoi (Ý), Vĩnh Châu (Việt Nam). Sản lượng trứng cyst Artemia năm 1997 đạt trên 2000 tấn. Tuy mỗi nguồn Artemia có chất lượng khác nhau, song, Artemia là loại thức ăn không thể thiếu trong sản xuất giống thủy sản, nhất là thủy sản nước lợ. 1.2 Kích thước miệng ấu trùng ở pha nuôi dưỡng đầu Kích thước miệng của ấu trùng pha đầu giới hạn kích thước của các tiểu phần thức ăn mà ấu trùng có thể ăn. Nói chung, kích thước miệng có liên quan với kích thước cơ thể và kích thước cơ thể lại bị chi phối bởi đường kính của trứng và thời kỳ nuôi dưỡng nội sinh (tức là thời kỳ tiêu thụ túi lòng đỏ). Ví dụ: trứng cá hồi Atlantic thường lớn hơn trứng Gilhead seabream ít nhất 4 lần (bảng 1). Kết quả là ở lúc nở, ấu trùng cá hồi khá lớn và túi lòng đỏ cũng lớn đủ cung cấp thức ăn nội sinh trong 3 tuần phát triển đầu tiên, còn như ấu trùng cá Gilhead seabream thì rất nhỏ, túi lòng đỏ cũng nhỏ và cung cấp thức ăn nội sinh chỉ đủ trong khoảng 3 ngày. Ở pha đầu, ấu trùng cá hồi có thể ăn được những tiểu phần thức ăn có kích thước 1mm, còn như ấu trùng Gilthead seabream chỉ ăn được những tiểu phần có kích thước 0,1mm. ĐH Bạc Liêu 5 Nuôi thức ăn tự nhiên
  6. Bảng 1. Kích thước trứng và chiều dài ấu trùng lúc nở của một số loài cá* Loài Đường kính trứng (mm) Chiều dài ấu trùng (mm) Cá hồi Atlantic (Salmo salar) 5,0 - 6,0 15,0 - 25,0 Cá hồi vân (Onchorhyncus mykiss) 4,0 12,0 - 20,0 Cá chép (Cyprinus caprio) 0,9 - 1,6 4,8 - 6,2 Seabass châu Âu (Dicentrarchus labrax) 1,2 - 1,4 7,0 - 8,0 Gilthead seabream (Sparus aurata) 0,9 - 1,2 3,5 - 4,0 Turbo (Scophthalmus maximus) 0,9 - 1,2 2,7 - 3,0 Sole (Solea solea) 1,0 - 1,4 3,2 - 3,7 Milkfish (Chanos chanos) 1,1 - 1,25 3,2 - 3,4 Grey mullet (Mugil cephalus) 0,9 - 1,0 1,4 - 2,4 Greasy grouper (Epinephelus tauvina) 0,77 - 0,90 1,4 - 2,4 Bream (Acanthopagrus cuvieri) 0,78 - 0,84 1,8 - 2,0 1.3 Ống tiêu hoá Tình trạng phát triển của hệ thống tiêu hoá của ấu trùng pha đầu cũng cho biết cung tiêu hoá được thức ăn ăn vào hay không. Ví dụ: ấu trùng cá hồi pha đầu đã có ống tiêu hoá phát triển tốt với hệ thống enzyme cho phép tiêu hoá được thức ăn đập vụn (feed crumble). Ngược lại, ấu trùng cá Gilhead seabream (giống như ấu trùng nhiều loài cá khác) không có dạ dày hoàn chỉnh, ống tiêu hoá thì ngắn, chỉ có một số enzyme hoạt động ở đầu pha nuôi dưỡng. Từ đó, thấy rằng ấu trùng của những cá này chỉ có thể sử dụng được những nguồn thức ăn (i) dễ tiêu hoá (như thức ăn chứa một số lớn axit amin tự do và oligopeptide thay cho những phân tử protein phức hợp), (ii) chứa enzyme cho phép thức ăn tự phân giải, và (iii) cung cấp đầy đủ các chất dinh dưỡng quan trọng mà ấu trùng yêu cầu. Nói chung, thức ăn phối chế không đáp ứng được tất cả các yêu cầu cho ấu trùng các loài cá nhỏ như Gilhead seabream và kết quả là ấu trùng nghèo sinh trưởng và có tỷ lệ chết cao. Trái lại, thức ăn sống thì có thể đáp ứng được tất cả các tiêu chuẩn cần thiết của ấu trùng các loài cá nhỏ. Ngoài ra, thức ăn sống còn có tác dụng kích thích sự phát triển các giác quan của ấu trùng. Các giác quan của ấu trùng như thị giác, khứu giác, vị giác và đường bên rất quan trọng đối với việc phát hiện thức ăn. Tuy vậy, các cơ quan này lại phát triển chưa hoàn thiện khi ấu trùng còn non.VD: võng mạc mắt của ấu trùng cá chỉ chứa tế bào hình nón, khiến cho năng lực thị giác kém, nhưng võng mạc mắt của cá giai đoạn lớn hơn (giai đoạn cá hương), ngoaì tế bào hình nón còn có tế bào hình gậy với nhiều sắc chất thị giác trên võng mạc, nhờ vậy năng lực thị giác tốt hơn.Thức ăn sống thường có độ tương phản tốt hơn thức ăn nhân tạo và nhờ vận động liên tục mà có hiệu quả kích thích, giúp cho giác quan ấu trùng phát triển. Ngoài ra, nhờ khả năng bơi của thức ăn sống mà thức ăn được phân bố đều trong cột nước, giúp cho ấu trùng có nhiều cơ hội gặp được thức ăn. Khẩu phần tự nhiên của hầu hết các loài cá nuôi gồm những loài phytoplankton (diatoms, flagellates vv..) và zooplankton khác nhau (copepods, cladocerans, ấu trùng decapod, rotifers, cilliates vv..). Sự phong phú và đa dạng của thức ăn sống với những kích thước và thành phần dinh dưỡng khác nhau đã cho ấu trùng cá những cơ may tuyệt vời để tăng trưởng và phát triển. Ngày nay, ba nhóm thức ăn sống dùng phổ biến để nuôi ấu trùng ở quy mô công nghiệp (industrial larviculture) là: + Những loài vi tảo có kích thước 2 đến 20µm sử dụng cho hai mảnh vỏ (bivalves), tôm he (penaeid shrimp), rotifer, copepods.., cá. + Brachionus plicatilis sử dụng cho giáp xác (crustaceans), cá biển ĐH Bạc Liêu 6 Nuôi thức ăn tự nhiên
  7. + Artemia spp. (meta-) nauplii cho giáp xác, cá Ngoài các nhóm trên, một số loại thức ăn sống khác cũng được dùng với mức độ hạn chế hơn, bao gồm Brachionus rubens, Moina spp., daphnids, trứng Artemia khử vỏ cho cá nước ngọt và ấu trùng tôm và sinh khối Artemia cho ấu trùng tôm hùm, postlarrvae tôm và tôm bố mẹ, cá biển giai đoạn cá hương. Trong vài năm gần đây người ta đạt được kết quả rất tốt trong việc nuôi tôm bằng một số sản phẩm bổ sung và thay thế thức ăn sống. Tuy nhiên, đối với việc nuôi cá biển giai đoạn đầu bằng loại thức ăn này thì kết quả còn rất hạn chế. CHƯƠNG 2: VI TẢO 2.1 GIỚI THIỆU Vi tảo là nguồn thức ăn cho tất cả các giai đoạn sinh trưởng của động vật hai mảnh vỏ, thức ăn cho ấu trùng của một số loài giáp xác và thức ăn cho một số loài cá ở giai đoạn sinh trưởng đầu. Mặt khác tảo lại là nguồn thức ăn của zooplankton và chính zooplankton lại là nguồn thức ăn cho ấu trùng của cá và giáp xác giai đoạn ấu trùng và giai đoạn cá hương. Bên cạnh đó, việc nuôi ấu trùng cá biển theo kỹ thuật nước xanh (green water technique), tảo được dùng trực tiếp trong các tank ấu trùng và chúng đóng vai trò làm ổn định chất lượng nước, cung cấp dinh dưỡng cho ấu trùng và khống chế vi khuẩn (hình 10.1). 2.1.1 Các loài tảo nuôi trồng chủ yếu Ngày nay 40 loài vi tảo khác nhau được phân lập từ khắp nơi trên thế giới được nuôi trồng theo phương thức thâm canh. Bảng 2. Các lớp và giống vi tảo chủ yếu được nuôi trồng (De Pauw và Persoone, 1988) Lớp Giống Ứng dụng Skeletonema PL, BL, BP Thalassiosira PL, BL, BP Phaeodactylum PL, BL, BP, ML, BS Chaetoceros PL, BL, BP, BS Bacillariophyceae Cylindrotheca PL Bellerochea BP Actinocyclus BP Nitzchia BS Cyclotella BS ĐH Bạc Liêu 7 Nuôi thức ăn tự nhiên
  8. Haptophyceae Isochrysis PL, BL, BP, ML, BS Pseudoisochrysis BL, BP, ML Dicrateria BP Chrysophyceae Monochrysis (Pavlova) BL, BP, BS, MR Prasinophyceae Tetraselmis (Platymonas) PL, BL, BP, AL, BS, MR Pyramimonas BL, BP Cryptophyceae Micromonas BP Chroomonas BP Cryptomonas BP Rhodomonas BL, BP Cryptophyceae Chlamydomonas BL, BP, FZ, MR, BS BP Chlorococcum Chlorophyceae Carteria BP Dunaliella BP, BS, MR Cyanophyceae Spirulina PL, BP, BS, MR Ghi chú: PL: ấu trùng tôm he BL: ấu trùng nhuyễn thể hai mảnh vỏ ML: ấu trùng tôm nước ngọt BP: hậu ấu trùng nhuyễn thể hai mảnh vỏ AL: ấu trùng bào ngư MR: rotifers nước mặn (Brachionus) BS: Tôm nước mặn (Artemia) SC: copepods nước mặn FZ: zooplankton nước ngọt 2.1.2 Giá trị dinh dưỡng của vi tảo Giá trị dinh dưỡng của vi tảo phụ thuộc vào kích thước tế bào, tỷ lệ tiêu hoá, chất độc và thành phần sinh hoá (bảng 3). Điều kiện nuôi trồng cũng ảnh hưởng nhiều đến giá trị dinh dưỡng của vi tảo. Tuy biến động khá rộng tuỳ theo các lớp và các loài, nhưng hàm lượng protein, lipid và carbohydrate biểu thị bằng % chất khô nằm trong phạm vi 12- 35, 7,2-23 và 4,6-23, lần lượt. Các acid béo chưa no HUFA, đặc biệt Eicosapentaenoic acid (EPA, 20:5n-3), arachidonic acid (ARA, 20:4n-6) và Docosahexaenoic acid (DHA, 22:6n-3) giữ vai trò quan trọng trong việc đánh giá giá trị dinh dưỡng đối với với một loài tảo dùng để nuôi động vật biển. EPA có nhiều trong các loài diatom (Chaetoceros calcitrans, C. gracilis, S. costatum, T. pseudomonas) và prymnesiophyte Platymonas lutheri, còn DHA thì có nhiều trong prymnesiophytes (P. lutheri, Isochrysis sp.) và Chroomonas salina. Thành phần acid béo của 10 loài vi tảo phát triển dưới những điều kiện xác định và thu hoạch ở pha log được trình bày ở đồ thị 10.3. Vi tảo cũng là một nguồn giầu vitamin C (0,11 - 1,62 %/chất khô). Bảng 3. Hàm lượng chlorophyl a (Chl a), protein, carbohydrtae (CHO) và lipid của 16 giống vi tảo dùng phổ biến trong nuôi thuỷ sản (% theo chất khô). Lớp và giống vi tảo Chất khô Chl a Protein CHO Lipid (pg.cell-1) (pg.cell-1) Bacillariophyceae ĐH Bạc Liêu 8 Nuôi thức ăn tự nhiên
  9. Chaetoceros calcitrans 11.3 0.34 3.8 0.68 1.8 Chaetoceros gracilis 74.8 0.78 9.0 2.0 5.2 Nitzchia closterium - - - - - Phaeodactylum tricornutum 76.7 0.41 23.0 6.4 10.7 Skeletonema costatum 52.2 0.63 13.1 2.4 5.0 Thalassiosira pseudonana 28 0.27 9.7 2.5 5.5 Chlorophyceae Dunaliella tertiolecta 99.9 1.73 20.0 12.2 15.0 Nannochloris atomus 21.4 0.080 6.4 5.0 4.5 Cryptophyceae Chroomonas salina 122.5 0.98 35.5 11.0 14.5 Eustigmatophyceae Nannochloropsis oculata 6.1 0.054 2.1 0.48 1.1 Prasinophyceae Tetraselmis chui 269.0 3.83 83.4 32.5 45.7 Tetraselmis suecica 168.2 1.63 52.1 20.2 16.8 Prymnesiophyceae Isochrysis galbana 30.5 0.30 8.8 3.9 7.0 Isochrysis aff. Galbana 29.7 0.29 6.8 1.8 5.9 (T-iso) Pavlova lutheri Pavlova salina 102.3 0.86 29.7 9.1 12.3 93.1 0.34 24.2 6.9 11.2 % theo vật chất khô Bacillariophyceae Chaetoceros calcitrans 11.3 3.01 34 6.0 16 Chaetoceros gracilis 74.8 1.04 12 4.7 7.2 Nitzchia closterium - - 26 9.8 13 Phaeodactylumtricornut 76.7 0.53 30 8.4 14 um 52.2 1.21 25 4.6 10 Skeletonema costatum 28.4 0.95 34 8.8 19 Thalassiosira pseudonana Chlorophyceae Dunaliella tertiolecta 99.9 1.73 20 12.2 15 Nannochloris atomus 21.4 0.37 30 23.0 21 Cryptophyceae Chroomonas salina 122.5 0.80 29 9.1 12 Eustigmatophyceae Nannochloropsis oculata 6.1 0.89 35 7.8 18 Prasinophyceae Tetraselmis chui 269.0 1.42 31 12.1 17 Tetraselmis suecica 168.2 0.97 31 12.0 10 Prymnesiophyceae Isochrysis galbana 30.5 0.98 29 12.9 23 Isochrysis aff. Galbana 29.7 0.98 23 6.0 20 ĐH Bạc Liêu 9 Nuôi thức ăn tự nhiên
  10. (T-iso) 102.3 0.84 29 9.0 12 Pavlova lutheri Pavlova salina 93.1 0.98 26 7.4 12 2.2 Vi tảo trong nuôi trồng thủy sản 2.2.1 Tảo Chlorella Chlorella là một loại rong đặc biệt, còn được gọi tên khoa học là Pyrenoidosa (tên cấu trúc pyrenoid trong Chloroplast) thường sống ở vùng nước ngọt và có hàm lượng chlorophyll cao nhất (đạt 28,9 g/kg) so với bất kỳ thực vật quang hợp nào được biết đến trên trái đất. Mỗi tế bào Chlorella pyrenoidosa có cấu trúc gồm nhân thật, hạt tinh bột, lục lạp và ti thể với vách tế bào chủ yếu là Xellulose. Kích thước của rong chỉ bằng tế bào hồng cầu người. Dưới những tế bào bình thường, một tế bào Chlorella sẽ phân chia thành 4 tế bào con trong thời gian chưa đến 24 giờ. Tuổi thọ của một vòng đời tế bào Chlorella phụ thuộc vào cường độ ánh sáng mặt trời, nhiệt độ và nguồn dinh dưỡng. Quá trình sinh sản nói chung được chia thành nhiều bước: Sinh trưởng - trưởng thành - thành thục - phân chia. Chlorella rất giàu protein, vitamin và các khoáng chất. Các protein của loài rong này có chứa tất cả các amino acid cần thiết cho nhu cầu dinh dưỡng của người và động vật. Rất nhiều vitamin có trong thành của Chlorella pyrenoidosa như: Vitamin C, tiền vitamin A ( caroten), riboflavin (B2), pyridoxine (B6), niacin (vitamin PP), axit panthothenic (vitamin B3), axit folic (vitamin B9), vitamin B12, biotin (vitamin H), choline, vitamin K, axit lipoic và inositol. Các nguyên tố khoáng ở Chlorella pyrenoidosa gồm có: Photpho, canxi, Kẽm, iod, Magie, sắt và đồng. Hình 2: Tế bào tảo chlorella Vai trò của tảo chlorella Chlorella được biết đến nhiều bởi vai trò quan trọng của nó về dinh dưỡng cũng như là nhân tố môi trường trong nuôi trồng thủy sản. Việc dùng Chlorella vào trong sản xuất đó là phương pháp nước xanh được áp dụng rộng rãi trong sản xuất giống tôm càng, một số loài cá và hai mảnh vỏ. Trong vùng nhiệt đới, Chlorella nước ngọt đã được sử dụng thành công trong việc nuôi luân trùng bằng cách thuần hoá trước khi cho ăn. Một trong những thuận lợi trong việc sử dụng Chlorella làm thức ăn cho luân trùng là do tảo này phát triển và phân cắt nhanh (chỉ sinh sản vô tính). Chlorella chứa hàm lượng protein 50%, lipid 20%, Carbohydrate 20%, Vitamin B1, B12, chất khoáng… Hơn nữa Chlorella còn sản sinh ra chất kháng sinh Chlorellin kháng lại một số vi khuẩn do đó hạn chế một số mầm bệnh. Khi ương ấu trùng tôm càng xanh, Cohen (1976) thấy rằng: sự hiện diện của thực vật phiêu sinh có thể thúc đẩy sự tăng trưởng của ấu trùng tôm thông qua việc loại bỏ NH và 3 một số chất độc khác. Hơn nữa, Joshep (1977) cũng ghi nhận: sự bổ sung tảo sẽ làm cho môi trường nước trở nên giàu dinh dưỡng, cung cấp những hợp chất vi lượng mà thức ăn ban đầu và thức ăn bổ sung không có. Chlorella cũng được chú ý nhiều trong sản xuất giống cua (Scylla serrata). Mặc dù một số công trình nghiên cứu thu được tỉ lệ sống của cua chỉ ở mức giới hạn (như thí nghiệm của Ong Kah Sin (1976) và Heasmen (1983), ương ấu trùng cua chỉ dùng Artemia; ĐH Bạc Liêu 10 Nuôi thức ăn tự nhiên
  11. hoặc thí nghiệm của Chen và Jeng (1980) có bổ sung Chlorella nhưng không có tác dụng), song, Chlorella vẫn được dùng rộng rãi trong ương ấu trùng cua. Brick (1974) đạt được tỉ lệ sống của cua cao nhất bằng cách thêm Chlorella vào môi trường ương. Hơn nữa, ở Đài Loan, Nhật Bản, ấu trùng cua cũng được ương trong môi trường có bổ sung Chlorella (Cowan, 1983; Chen, 1991). Liao (1991) báo cáo rằng: Ở Đài Loan khi ương ấu trùng cá măng, người ta bổ sung 4 Chlorella vào bể với mật độ: 50-350 x 10 tế bào/lít để duy trì chất lượng nước và quần thể luân trùng-thức ăn chính của ấu trùng tôm, mặc dù tôm có ăn trực tiếp tảo hay không chưa được chứng minh. Trong ương ấu trùng cá Grey mullet, Chlorella cũng được thêm vào bể 3 ấu trùng trong những ngày đầu tiên với mật độ 500-700 x 10 tế bào/ml. Ngoài ra, Chlorella còn là thức ăn rất quan trọng trong ương nuôi luân trùng và động vật phiêu sinh khác. Bên cạnh những loài Chlorella biển, loài Chlorella nước ngọt, Chlorella vulgairs, cũng được thử nghiệm thành công làm thức ăn cho luân trùng (Hirayama và ctv., 1988). Yamasaki và ctv. (1989) cũng chỉ ra rằng: hai dạng đông lạnh của tảo Nannochloropsis sp. (loài tảo Chlorella biển) đều cho kết quả tương tự nhau về tốc độ tăng trưởng của quần thể luân trùng khi cho ăn hai dạng tảo trên. Theo báo cáo, tốc độ tăng trưởng và sức sinh sản trung bình của luân trùng cao nhất khi cho ăn Chlorella, tiếp theo là loài Isochrysis galbana (Nagata và Whyte, 1992). Mật độ quần thể, sản lượng và tốc độ sinh 6 trưởng của luân trùng cũng tăng lên theo sự gia tăng mật độ tảo ban đầu, đạt đến 40 x 10 tế bào /ml (James và ctv., 1986). Với hàm lượng HUFA cao, Chlorella không chỉ là thức ăn quan trọng của luân trùng mà còn được dùng để làm giàu acid béo cho luân trùng và một số động vật phù du khác trước khi dùng chúng làm thức ăn cho cá và các loài nuôi thủy sản khác. 2.2.2 Tảo Dunaliella Tảo Dunaliella có chứa hàm lượng glycerol và β-caroten cao nên được xem là đối tượng nuôi đầy triển vọng, dùng làm thức ăn không chỉ trong nghề nuôi thủy sản mà còn nhiều lĩnh vực khác. Trong các loài thuộc giống Dunaliella, loài D. salina có hàm lượng β-caroten cao nhất (Borowithzka, 1990), chiếm 20% trọng lượng khô (Kranzfelder, 1991). Trong nuôi thủy sản, Dunaliella đóng vai trò trong chế độ dinh dưỡng của nhuyễn thể nhưng với mức độ khác nhau tùy theo loài nhuyễn thể. Quan sát quá trình tiêu hóa của ấu trùng Strombus gigas với 8 loại tảo khác nhau (Isochrysis galbana, Tetraselmis chuii, T. seucica, Dunaliella tertiolecta, Chlamidomonas cocoides, Thalassiosira fluviatilis, Chlorella sp., và Chaetoceros sp.), Aranda (1994) thấy rằng quá trình tiêu hóa tảo Tetraselmis chuii, Chaetoceros sp. và Chlorella sp. nhanh hơn so với 5 loài tảo còn lại. Sự tiêu hóa tảo Chaetoceros sp. và Chlorella sp. nhanh hơn so với tảo D. tertiolecta...Khi ương ấu trùng Mytilus galloprovincialis với các loài tảo Dunaliella tertiolecta, T. seucica, I. Galbana, P. tricornutum, dạng đơn lẻ hay hỗn hợp, kết quả cho thấy tỉ lệ sống và sức tăng trưởng của ấu trùng thấp nhất ở nghiệm thức cho ăn hỗn hợp T. seucica và I. Galbana (Moskera và ctv., 1989). Dunaliella không chỉ có vai trò quan trọng trong ương nuôi nhuyễn thể mà chúng còn dùng làm thức ăn cho một số loài cá biển, cho Artemia và động vật phiêu sinh khác. ĐH Bạc Liêu 11 Nuôi thức ăn tự nhiên
  12. Đồ thị 10.3. Thành phần acid béo của 10 loài vi tảo (Volkman et al., 1989). 2.2.3 Tảo Spirulina Cùng với Chlorella và Dunaliella, Spirulina cũng là loài tảo rất giàu protein, acid amin thiết yếu, acid béo, khoáng, vitamin và các hợp chất carotenoid nên chúng được xem là nguồn dinh dưỡng rất tốt trong nuôi thủy sản. Mustafa và ctv. (1994) thông báo Spirulina được thêm vào làm thức ăn bổ sung cho Pagrus major với tỉ lệ 5% đã làm tăng tốc độ tăng trưởng của cá, hiệu quả chuyển đổi thức ăn và hiệu suất sử dụng protein; thành phần protein có trong thịt cá không bị ảnh hưởng xấu. So với những loại tảo có kích thước lớn được thí nghiệm trước đó thì loài Spirulina ảnh hưởng tốt nhất đến sự tăng trưởng và sử dụng thức ăn của cá Red sea beam. El (1994) cũng cho biết tốc độ tăng trưởng và hiệu quả sử dụng thức ăn của cá Silver sea beam khác nhau không có ý nghĩa giữa nghiệm thức có bổ sung 50% Spirulina trong khẩu phần ăn với nghiệm thức đối chứng 100% bột cá. Tuy nhiên, thay 75% Spirulina thì có ảnh hưởng bất lợi. Spirulina cũng được đề nghị thay thế một phần bột cá trong chế độ ăn của cá rô phi O. mossambicus. Boonyarapalin và ctv (1989) nghiên cứu về sự thay đổi màu sắc của cá rô phi đỏ Oreoromic niloticus với các nguồn bổ sung sắc tố khác nhau, gồm: Spirulina ĐH Bạc Liêu 12 Nuôi thức ăn tự nhiên
  13. marigold, Pepal meal, bột đầu tôm, bột nghệ và thức ăn đối chứng. Ông thấy rằng tương ứng với các loại thức ăn trên, màu sắc của cá rô phi thay đổi theo thứ tự nâu đỏ, vàng lam, lam, cam và hơi cam. Một nghiên cứu khác cũng cho biết sắc tố của cá chép trở nên đậm hơn khi cho cá ăn khẩu phần có bổ sung 10% Spirulina. Nguồn cung cấp sắc tố khác là Marigold petal chỉ cho sự biến đổi màu nhẹ (Wutiporn-Phromkunthong, 1984). Sự biến đổi màu sắc của tôm sú nuôi cũng được Okada và ctv nghiên cứu. Các tác giả nghiên cứu sử dụng các nguồn bổ sung carotenoid khác nhau trong khẩu phần ăn của tôm từ β-caroten, Spirulina, Phaffia và krill oil. họ nhận thấy Spirulina cho kết quả tốt nhất về sự gia tăng hàm lượng caroten trong vỏ của tôm. Nên cho tôm ăn với khẩu phần chứa 3% Spirulina trong 1 tháng trước khi thu hoạch. Nghiên cứu về ảnh hưởng của các nguồn protein khác nhau trong khẩu phần ăn của tôm thẻ (Penaeus indicus), Ali (1992) phát hiện Spirulina và đậu phụng cho sức tăng trưởng của tôm tốt hơn so với bánh dầu dừa; hiệu quả sử dụng protein thô và giá trị sinh học của Spirulina cao hơn so với đậu phụng. Khi ương ấu trùng tôm he (Penaeus) từ gia đoạn Zoea 1 đến Mysis 2, Gu và ctv (1989) thấy rằng ấu trùng được cho ăn Spirulina apletensis và S. platensis cộng với bột đậu nành, đạt kích cỡ 663-757 dài hơn có ý nghĩa so với thức ăn đối chứng chỉ dùng bột đậu nành. Tỉ lệ tôm sống của nghiệm thức trên đạt 48-53%, cao hơn rất nhiều so với đối chứng (11%). 2.2.4 Tảo khuê 2.2.4.1 Các giống nuôi trồng chủ yếu: Giống Đối tượng cho ăn Skeletonema PL, BL, BP Thalassiosira PL, BL, BP Phaeodactylum PL, BL, BP, ML, BS Chaetoceros PL, BL, BP, BS Cyclindrotheca PL Bellerochea BP Actinocysclus BP Nitzchia BS Cyclotella. BL: Ấu trùng nhuyễn thể BP: Hậu ấu trùng nhuyễn thể BS: Artemia ML: Ấu trùng tôm nước ngọt PL: Ấu trùng tôm biển Tảo khuê là một trong những loài tảo phù hợp về kích thước và chất lượng dinh dưỡng cho ấu trùng tôm sú. Tảo có tốc độ tăng trưởng nhanh, có thể nuôi trong điều kiện nhân tạo, trong các trại sản xuất giống. Qua thực tế sản xuất và nghiên cứu người ta đã tìm ra được hai loại tảo Silic (Baciliariophyta) để nuôi sinh khối và làm thức ăn cho ấu trùng tôm: Chaetoceros sp và Skeletonema costatum. 2.2.4.2 Đặc điểm tảo khuê ĐH Bạc Liêu 13 Nuôi thức ăn tự nhiên
  14. Dạng chuỗi, kích thước tế bào 4-6 µm, Chaetoceros sp: 10-20 tb/chuỗi, Skeletonema costatum : 20-50 tb/chuỗi - Bề mặt tế bào hình chữ nhật hoặc vuông. - Gốc tế bào có các gai hoặc lông-> kết hợp tạo chuỗi - Là tảo phù du sống ở thủy vực nước lợ, mặn nồng độ muối 0-50‰ - Rộng nhiệt, thích hợp ở 25-30o C - Chiếu sáng trên 12 h, sau 20-24 h đạt mật độ 500.000-600.000 tb/ml. - Phát triển tốt làm cho nước có màu vàng xanh đến nâu. - Phát triển qua 3 pha: •“Lag” : pha thích nghi •“Exponential”: Pha tăng sinh •“Stationary”: Pha bão hòa 2.2.4.3 Kĩ thuật nuôi tảo Chaetoceros sp và Skeletonema costatum : Trang thiết bị: - Vợt các loại (vợt thu, vợt lọc) - Lưới thu - Dây thu Ø 21 hoặc 27 - Dây khí, đá bọt - Bể gây giữ giống (bình thủy tinh, hoặc hình tam giác) - Bể sinh khối (từ 1-3m 3/bể) - Hóa chất các loại Môi trường nuôi cấy Dùng môi trường Walne để cấy giữ và nuôi sinh khối tảo khuê Các dung dịch theo thứ tự sau: Dung dịch 1 (tăng trưởng) - KNO3 (hoặc NaNO3) 116gr (100 gr) - EDTA 45,0 gr - H3BO3 33,6 gr - NaH2PO4.2H2O 20 gr - FeCL3 1,3gr - MnCL2.4H2O 0,36gr - Dung dịch 2 (khoáng vi lượng) 2,1gr -ZnCL2 1ml - CoCL2. 6H2O 2,0gr - Hòa tan trong 100ml nước ngọt Dung dịch 2 (vitamin) - B1 200mg - B12 100mg - Hòa tan trong 100 ml nước ngọt Dung dịch 3 (dung dịch tăng thêm) - KNO3 100gr ĐH Bạc Liêu 14 Nuôi thức ăn tự nhiên
  15. - Hòa tan trong 1 lít nước ngọt t Dung dịch 4 (môi trường silicat) - Na2SiO3.5H2O 20gr (hoặc 67ml) - Hòa tan trong 1 lít nước ngọt Các môi trường trên khi dùng trong nuôi cấy thì dùng mỗi loại dung dịch (1,3,4,5) theo tỷ lệ 1/1000 (1ml dung dịch mỗi loại cho 1 lít nước). Khi dùng để nuôi sinh khối thì bón các dung dịch trên theo tỷ lệ 1/10.000. Nguồn nước: Nguồn nước nuôi giữ và nuôi sinh khối tảo cần phải được xử lý (xem phần kỹ thuật xử lý nước) Kỹ thuật thu giống: Giống được vớt ở những vùng ven bờ biển vào lúc triều cao, dùng lưới phiêu sinh có kích thước mắt lưới 15-18µm, vớt theo hình số 8. Để có loài cần nuôi ta phải thu mẫu nhiều lần. Dưới kính hiển vi ta kiểm tra được tảo Chaetoceros sp và Skeletonema có dạng chuỗi. Thuần giống: Tảo vớt tự nhiên thường lẫn nhiều tạp mùn bả hữu cơ và động vật phù du. Do vậy ta phải phân lập tảo bằng lưới có kích thước mắt lưới lớn hơn lượt qua nhiều lần và cuối cùng chỉ giữ lại phần nước có tảo trong đó. Có thể thực hiện việc thuần giống tảo theo 2 phương pháp sau: Dùng ưu thế môi trường để thuần giống một cách tương đối. Nghĩa là trong điều kiện môi trường dinh dưỡng đưa vào phù hợp với sinh học phát triển của 2 giống tảo này sẽ giúp cho chúng ưu tiên phát triển hơn. Nên trải qua một thời gian 2 giống tảo này sẽ chiếm ưu thế để phát triển quần thể, chúng sẽ trở nên thuần chủng. - Dùng phương pháp phân lập để tách 2 giống tảo này ra để nuôi riêng với môi trường dinh dưỡng thích hợp. Sau nhiều lần phần lập chúng sẽ trở nên thuần chủng. - Khi tảo giống đã thuần chủng thì được nuôi giữ và đưa ra nuôi sinh khối. Giữ giống Để chủ động cung cấp tảo cho sản xuất, chúng ta cần phải có phương pháp lưu giữ tảo. Việc lưu giữ tảo được thực hiện trong phòng nuôi cấy tảo hoặc ở khu phân bố riêng cho vùng nuôi tảo hoặc trong trại sản xuất tôm giống. Giống được giữ trong bình thủy tinh hay bình tam giác và được nuôi trong môi trường Walne ở nồng độ muối từ 25-30 ‰ . Thời gian nuôi tùy thuộc vào mật độ tảo đưa ra ban đầu và sự tăng trưởng của tảo nuôi. Thông thường thời gian nuôi giữ tảo từ 16-24h. Cách lưu giữ này có thể đảm bảo chất lượng tảo giống trước khi đưa vào nuôi sinh khối. Kỹ thuật nuôi sinh khối: Trong các trại sản xuất tôm giống, người ta thường bắt đầu nuôi sinh khối tảo khi ấu trùng Nauplius (N) ở giai đoạn N3 hoặc N4. Việc nuôi sinh khối được tiến hành theo các bước sau: - Vệ sinh kỹ bể nuôi bằng xà phòng sau đó rửa lại bằng nước biển đã xử lý - Bơm nước biển đã xử lý vào bể - Cấp khí (24h/24h) - Cấp tảo giống (giống đang lưu giữ) đang ở pha tăng trưởng với mất độ 50.000 - 70.000tb/ml. - Cấp các muôi dinh dưỡng (bón phân) theo thứ tự các dung dịch đã pha sẵn (chú ý dung dịch 5 thường hay kết tủa với nước mặn vì vậy đối với dung dịch này ta cần phải pha thêm nước ngọt). Vào những ngày nắng nhẹ trời râm có thể tăng dung dịch 5 lên gấp nhiều lần. ĐH Bạc Liêu 15 Nuôi thức ăn tự nhiên
  16. - Khi tảo trong bể nuôi sinh khối đạt đến mật độ khoảng 500.000 - 600.000tb/ml hoặc bằng mắt thường ta thấy tảo có màu nâu đậm là có thể tiến hành thu sinh khối. * Cách thu: Dùng dây nhựa # 21 hoặc lớn hơn tùy theo dòng chảy, một đầu được buộc bằng túi lưới thu (kích thước mắt lưới 15 - 20µm ) đầu kia cho vào bể hút nhẹ, nước tảo sẽ chảy liên tục trong khoảng thời gian 15-30 phút, các tế bào tảo được giữ lại, sau đó tháo túi ra và chuyển sinh khối tảo này vào xô, cứ thế lại tiếp tục thu cho đến khi nước trong bể nuôi tảo còn khoảng 1/4-1/5 thì có thể kết thúc. 2.2.4.4 Vai trò của tảo khuê trong nuôi trồng thủy sản: Làm thức ăn trong nuôi trồng thủy sản Trong lớp tảo khuê, loài Skeletonema costatum được phân lập lần đầu tiên bởi Masue (1941) đã được dùng rộng rãi và là thức ăn rất quan trọng của âu trùng tôm biển. Hudinaga đã đạt được thành công đầu tiên trong việc sử dụng tảo này làm thức ăn cho ấu trùng tôm, tỉ lệ sống ở giai đoạn Mysis đạt 30%, cao hơn rất nhiều so với các kết quả trước đây, chỉ đạt 1% (Liao, 1983). Từ kết quả đó, nhiều loài tảo khuê khác như Chaetoceros sp., Thlasiosira, Isochrysis,... cũng được nghiên cứu làm nguồn thức ăn cho ấu trùng tôm. Tùy theo từng loài tảo và đặc điểm của chúng mà mỗi loài đều có những ưu điểm và nhược điểm riêng đối với ấu trùng tôm. Trong quá trình phát triển của lĩnh vực sản xuất tôm giống, người ta đã chế biến ra nhiều loại thức ăn nhân tạo để thay thế một phần hoặc toàn bộ tảo khuê. Tuy nhiên, đến nay tảo khuê vẫn được xem là thức ăn tươi sống rất quan trọng của ấu trùng tôm. Trong thí nghiệm so sánh về sự ảnh hưởng của 9 loại thức ăn nhân tạo dùng thay cho tảo khuê (Chaetoceros) làm thức ăn cho ấu trùng tôm, Utama và ctv (1992) nhận thấy giảm mật độ tảo từ 50.000 xuống còn 5.000 tế bào/ml do việc thay thế tảo bằng thức ăn nhân tạo vẫn cho kết quả tốt, tỉ lệ sống của ấu trùng tôm giữa các nghiệm thức vẫn không khác nhau, nhưng mật độ tảo không thể thấp hơn 5.000 tế bào/ml. Hơn nữa, Chu (1991) cũng nhận thấy ấu trùng tôm Metapenaeus ensis và Penaeus chinese cho ăn thức ăn nhân tạo bị chậm lớn và tỉ lệ sống luôn thấp hơn so với tôm cho ăn Chaetoceros garcilis và Artemia. Kết quả thí nghiệm của Chu (1989) cho thấy chỉ dùng một loài tảo Chaetoceros gracilis có thể cung cấp chế độ ăn đầy đủ dinh dưỡng cho ấu trùng tôm Metapenaeus ensis từ giai đoạn Zoea đến PL6 với tỉ lệ sống đạt 35-63%. Việc bổ sung Artemia không làm cải thiện được tỉ lệ sống của ấu trùng tôm. Bên cạnh đó, tảo khuê còn đóng vai trò quan trọng trong nuôi nhuyễn thể. Okauchi (1990) thí nghiệm tìm hiểu về vai trò của tảo đối với spat của trai (Pintctada fucata) và thấy sức tăng trưởng của spat cho ăn chỉ có tảo Isochrysis aff galbana thấp hơn so với spat cho ăn kết hợp Isochrysis galbana và Chaetoceros garcilis. Laing và ctv (1990) nghiên cứu về giá trị dinh dưỡng của tảo khô loài Nannochloris sp. và Tetraselmis seucica so với lô đối chứng gồm hỗn hợp tảo Chaetoceros calcitral và T-ISO dùng làm thức ăn cho ấu trùng nghêu Manila (Tapes philipinarum), thấy rằng ấu trùng nghêu cho ăn tảo khô có sức tăng trưởng bằng hoặc cao hơn so với cho ăn dạng tươi sống, nhưng thấp hơn so với lô đối chứng. Gây màu nước Trong nuôi trồng thủy sản nói chung, nuôi tôm - cá nói riêng, màu nước có vai trò rất quan trọng trong việc tham gia hình thành chuỗi thức ăn tự nhiên, hệ lọc sinh học, ổn định các thông số môi trường… Nói cách khác, nuôi thủy sản muốn thành công, trước tiên cần phải nuôi và giữ màu nước ổn định, bền vững. Thực chất, màu nước trong ao - hồ nuôi thủy sản được hình thành chủ yếu do các hệ phiêu sinh thực vật (Phytoplankton), phiêu sinh động vật (Zooplankton), các loài tảo, ấu trùng các loài giáp xác… Đối với ngành thủy sản, màu nước được xem là lý tưởng để nuôi tôm - cá tốt nhất đó là màu xanh lá chuối non và màu vàng vỏ đậu xanh. Trong đó, màu xanh ĐH Bạc Liêu 16 Nuôi thức ăn tự nhiên
  17. lá chuối non thể hiện sự hiện diện mật độ cao của loài tảo lục (Chlorella), màu vàng vỏ đậu xanh, thể hiện sự hiện diện mật độ cao của tảo khuê (Chaetoceros), tảo Silic (Skeletonema). Sự hiện diện 3 loài tảo này trong các ao - hồ nuôi thủy sản, thể hiện môi trường rất nhiều thức ăn tự nhiên, phong phú về chủng loại thức ăn tự nhiên, cân bằng các yếu tố môi trường và các phương trình sinh hóa - sinh lý, ít các loài tảo độc - rong độc, giàu dưỡng chất. CHƯƠNG 3: LUÂN TRÙNG (ROTIFERS) 3.1 Đặc điểm sinh học của luân trùng 3.1.1 Vị trí phân loại Theo Pechenik (2000), hệ thống phân loại của luân trùng như sau: Ngành : Rotifera Lớp : Monogononta Bộ : Ploima Họ : Brachionidae Giống : Brachionus Loài : Brachionus plicatilis (Muller) 3.1.2 Đặc điểm hình thái Cơ thể luân trùng được phân biệt thành 3 phần khác nhau: đầu, thân và chân. - Phần đầu: mang bộ máy tiêm mao, là cơ quan giúp cho sự vận động và tạo dòng nước đưa thức ăn vào miệng. Phần trên cùng của đầu là cơ quan cảm giác. - Phần thân: có lớp vỏ cuticul không thấm nước, chỉ bị phân huỷ khi luân trùng chết. - Phần chân có dạng vòng, có khả năng co rút, phần tận cùng không phân đốt với hai mấu chân tiết chất dính giúp cơ thể dính vào giá thể (Fukúho, 1981 trích bởi Cái Ngọc Bảo Anh, 1999). Luân trùng có kích thước cơ thể nhỏ dao động từ 100-360 µm, cơ thể có dạng hình trứng dài và hơi dẹp. Bờ bụng trước của vỏ có 4 gai và có dạng u lồi, giữa có khe hình chữ V. Bờ lưng trước có 6 gai hình tam giác và đỉnh nhọn . Cơ quan đặc trưng của luân trùng là mề nghiền, có tác dụng trong việc nghiền các hạt được ăn. Luân trùng thuộc về lớp động vật đa bào nhỏ nhất. Trong số hơn 1000 loài đã được nhận biết, có tới 90% loài sống ở môi trường nước ngọt. Chiều dài cơ thể của rotifer khoảng 2mm, con đực nhỏ hơn và kém phát triển hơn con cái. Cơ thể của tất cả các loài gồm một số tế bào cố định (ví dụ các loài Brachionus chứa khoảng 1000 tế bào (xem hình 10.6 mô tả sơ lược một số loài rotifer nước mặn và nước ngọt). 3.1.3 Phân bố và dinh dưỡng của luân trùng Luân trùng phân bố rộng nhiều nơi trên thế giới, ở nước ta phân bố ở ao, đầm… với mật độ cao. Brachionus plicatilis là động vật ăn lọc nên thức ăn chủ yếu là vi tảo, vi khuẩn, mùn xác hữu cơ, vật thể lơ lửng trong nước. ĐH Bạc Liêu 17 Nuôi thức ăn tự nhiên
  18. 3.1.4 Sinh trưởng và dinh dưỡng Dựa vào các đặc điểm hình thái khác nhau, người ta phân loại ra 2 dòng Brachionus là dòng nhỏ (dòng S) và dòng lớn (dòng L) - Luân trùng dòng S là Brachionus rotundiformis, có chiều dài vỏ giáp từ 100-210 µm (trung bình là 160 µm). Trên vỏ giáp có gai nhọn. - Luân trùng dòng L là Brachionus plicatilis, có chiều dài vỏ giáp từ 130-340 µm (trung bình là 239 µm). Trên vỏ giáp có các gai góc tù. Theo James và Abu-Rezeq (1989b), trọng lượng khô của luân trùng dòng S là 0,22µg và luân trùng dòng L là 0,33µg. Luân trùng dòng S và L sinh trưởng với tốc độ khác nhau, có khả năng chịu đựng nhiệt độ khác nhau và có nhiệt độ sinh trưởng tối ưu khác nhau (Fushuko, 1989). Dòng S sinh trưởng tối ưu ở nhiệt độ từ 28-35oC. Dòng L đạt sinh trưởng tối ưu ở nhiệt độ từ 18- 25oC. Luân trùng B. plicatilis là loài ăn lọc không chọn lọc, thức ăn có kích thước 20-25 µm mang đến miệng nhờ sự chuyển động của vòng tiêm mao (Dhert, 1996) thông qua hoạt động bơi lội. Trong tự nhiên, các loại thức ăn thường được luân trùng sử dụng là tảo, vi khuẩn, nấm men, chất hữu cơ lơ lững trong nước. Brachionus plicatilis with resting egg Brachionus rotundiformis with parthenogenesis egg (photograph by Jung Min-Min) (photograph by Jung Min-Min) 3.1.5 Đặc điểm sinh sản và vòng đời của luân trùng Luân trùng có tuổi thọ ngắn, trung bình 3.4 - 4.4 ngày ở điều kiện nhiệt độ 25°C. Chúng có thể đạt đến giai đoạn trưởng thành chỉ 0.5 - 1.5 ngày sau khi nở hay đẻ. Sau đó, con cái có thể đẻ liên tục, mỗi lần cách nhau khoảng 4 giờ. Suốt đời sống, con cái có thể tham gia đẻ 10 lứa. Tuy nhiên, khả năng sinh sản của con cái còn tùy thuộc rất nhiều vào điều kiện môi trường, đặc biệt là nhiệt độ. Vòng đời của luân trùng có sự luân phiên giữa 2 hình thức sinh sản (hình 10.5): Sinh sản vô tính: con cái vô tính sẽ sinh ra trứng lưỡng bội (2n) và sẽ phát triển thành con cái vô tính. Con cái này sinh sản với tốc độ nhanh, nhịp sinh sản khoảng 4 giờ dưới điều kiện ĐH Bạc Liêu 18 Nuôi thức ăn tự nhiên
  19. thuận lợi. Tốc độ sinh sản phụ thuộc vào điều kiện nuôi và tuổi của luân trùng. Đây là hình thức sinh sản nhanh nhất để tăng quần thể luân trùng và là hình thức quan trọng trong hệ thống nuôi luân trùng. Sinh sản hữu tính: Trong vòng đời của luân trùng, khi có sự biến động đột ngột của điều kiện môi trường như nhiệt độ nồng độ muối… luân trùng sẽ chuyển sang hình thức sinh sản hữu tính. Trong quá trình này xuất hiện cả con cái vô tính và con cái hữu tính, chúng đều có hình thái giống nhau, khó phân biệt tuy nhiên con cái hữu tính sẽ sinh ra trứng đơn bội (1n). Con cái hữu tính có 3 kiểu sinh sản: - Con non sinh ra từ những trứng đơn bội không thụ tinh sẽ phát triển thành con đực. Con đực có kích thước bằng 1/3 kích thước con cái. Chúng không có ống tiêu hoá và bàng quang nhưng có tinh hoàn đơn với nhiều tinh trùng thành thục. - Trứng nghỉ: là trứng đơn bội đã thụ tinh. Trứng nghỉ có vách tế bào dày giúp nó chịu đựng qua điều kiện khắt nghiệt và khi gặp điều kiện thuận lợi sẽ nở thành con cái vô tính 3.2 Kỹ thuật nuôi luân trùng 3.2.1 Điều kiện nuôi Nhiệt độ Nhiệt độ thích hợp cho luân trùng phụ thuộc vào hình thái của chúng. Luân trùng dòng lớn (dòng L) sẽ phát triển tốt ở nhiệt độ 18-25°C trong khi luân trùng dòng nhỏ (dòng S) thích hợp với nhiệt độ là 28-35°C, nhưng nhìn chung dao động nhiệt độ thích hợp cho luân trùng là 20-30°C (Fulks và Main, 1991). Nhiệt độ ảnh hưởng đến thành phần sinh hoá và khả năng tiêu thụ thức ăn của luân trùng. Ở nhiệt độ cao sẽ tăng khả năng tiêu thụ thức ăn đồng thời tăng chi phí thức ăn. Ở nhiệt độ cao, luân trùng sẽ tiêu thụ rất nhanh nguồn carbohydrate vầ chất béo dự trữ (Dhert, 1996). Bảng 3. Ảnh hưởng của nhiệt độ đến hoạt động sinh sản của Brachionus plicatlis (Theo Ruttner-Kolisko, 1972) Nhiệt độ (0C) 15 20 25 Thời gian để phát triển phôi (ngày) 1,3 1,3 0,6 Thởi gian đẻ các con cái non đẻ lần đầu (ngày) 3,0 1,9 1,3 Khoảng thời gian giữa hai lần đẻ (giờ) 7,0 5,3 4,0 Tuổi thọ (ngày) 15 10 7 Số trứng do 1 con cái đẻ trong cuộc đời của nó 23 23 20 pH: Trong tự nhiên luân trùng có thể sống ở pH từ 5-10, thích hợp nhất ở 7,5-8,5 (Hoff và Snell, 2004). Hoạt động bơi lội và hô hấp của luân trùng hầu như không thay đổi khi pH trong khoảng 6,5-8,5 và suy giảm khi pH dưới 5,6 hoặc trên 8,7 (Nogrady 1993). Hoạt động bơi lội của luân trùng trong môi trường kiềm giảm nhanh hơn trong môi trường axit. Độ mặn: Độ mặn thích hợp nuôi luân trùng được xác định nằm trong khoảng 4 – 35 ppt (Lubzens, 1987), tốt nhất là 25 ppt ( Spektorova, 1998 trích Như Văn Cẩn, 1999). Mặc dù, luân trùng có thể tồn tại ở độ mặn 1-97 ppt, nhưng nó chỉ phát triển tốt ở độ mặn tối ưu, sự biến đổi đột ngột về độ mặn có thể làm luân trùng ngừng hoạt động, gây chết hoặc làm giảm chất lượng luân trùng, điều này có ý nghĩa khi ta sử dụng luân trùng để làm thức ăn cho ấu trùng động vật biển trước khi cho ấu trùng ăn ta cần phải làm thuần đến độ mặn thích hợp. Oxy hòa tan: Ngoài hai yếu tố chính là nhiệt độ và độ mặn thì các yếu tố như oxy hoà tan, NH3 … cũng có những ảnh hưởng theo các mức độ khác nhau. Trong nuôi sinh khối với mật độ cao cần quan tâm tới việc bổ sung ôxy, nhưng cũng không nên sục khí quá mạnh bởi có thể làm tổn thương tới luân trùng. Luân trùng có thể tồn tại trong nước với hàm lượng ôxy thấp tới 2 mg/l. ĐH Bạc Liêu 19 Nuôi thức ăn tự nhiên
  20. Ánh sáng : Khi so sánh hệ thống nuôi ngoài trời với ánh sáng mặt trời đầy đủ và nuôi trong điều kiện tối, Fukusho (1989) nhận thấy luân trùng B. plicatilis phát triển tốt trong điều kiện ánh sáng đầy đủ. Theo Fulks và Main (1991), ánh sáng kích thích sự phát triển của luân trùng nhờ vào sự gia tăng phát triển của vi khuẩn quang hợp và tảo trong bể nuôi. NH3 : NH3 gây độc đối với động vật thủy sinh. Hàm lượng N-NH3 trong hàm lượng tổng cộng N-NH4+ (TAN) có phụ thuộc vào pH và nhiệt độ. Fulks và Main (1991) đã nêu ra mối quan hệ giữa hàm lượng NH3 và mật độ luân trùng thấp trong bể nuôi luân trùng. Họ cũng đã điều tra về ảnh hưởng tức thời và lâu dài của NH3 đến tốc độ phát triển và sinh sản của luân trùng và đi đến kết luận “NH3 là một trong những yếu tố hạn chế sự phát triển quần thể trong hệ thống nuôi luân trùng”. Hoff và Snell (2004) đề nghị hàm lượng NH3 trong bể nuôi luân trùng không nên vượt quá 1 ppm. NH3 ở nồng độ 8-13 ppm sẽ làm giảm 50% sức sinh sản và tốc độ tăng trưởng của quần thể (Fulks và Main, 1991). N-NO2- : Theo Groeneweg and Schluter (1981), hàm lượng N-NO2- đạt từ 10-20ppm không gây độc đối với luân trùng Brachionus rubens. Lubzens (1987) cho rằng ở nồng độ 90-140 ppm N-NO2- gây độc đối với luân trùng. 3.2.2 Các loại thức ăn nuôi luân trùng và cách cho ăn Luân trùng thuộc nhóm ăn lọc không chọn lọc nên việc có thể sử dụng nhiều loại thức ăn để nuôi chúng. Tuy nhiên, giá trị dinh dưỡng của thức ăn sẽ quyết định giá trị dinh dưỡng cũng như năng suất nuôi luân trùng. Do đó, việc chọn lựa nguồn thức ăn thích hợp để nuôi luân trùng sẽ quyết định đến năng suất và giá trị của luân trùng. Thức ăn sử dụng cho nuôi luân trùng chủ yếu là tảo, men bánh mì (yeast) và thức ăn nhân tạo. Sử dụng tảo làm thức ăn cho luân trùng Theo James và ctv. (1983), cho luân trùng ăn bằng vi tảo sẽ tăng năng suất nuôi, trong đó luân trùng phát triển tốt khi sử dụng các loài tảo Chlorella, Nannochloropsis oculata, Isochrysis, Tetraselmis… Tảo biển được coi là thức ăn tốt nhất nuôi luân trùng vì có giá trị dinh dưỡng cao, giàu vitamin, phân tán tốt trong nước và đặc biệt không làm ô nhiễm nước. Tuy nhiên trong thực tế các trại sản xuất khó có k năng cung cấp đủ tảo cho nuôi luân trùng. Bởi vì, luân trùng có sức tiêu thụ thức ăn khá lớn, một con cái có thể tiêu thụ một lượng tảo tương đương 5-10 lần thể tích cơ thể chúng (Banabe, 1991 trích bởi Như Văn Cần, 1999). Trong khi đó, việc sản xuất tảo với số lượng lớn lại đòi hỏi phải có sự đầu tư lớn cơ sở vật chất và nhiều nhân công. Ngoài ra, những rủi ro do bị nhiễm bẩn và những biến đổi theo thời gian trong giá trị thức ăn của tảo vẫn còn là vấn đề tồn tại với bất kỳ trại sản xuất giống cá biển nào. Để hạn chế vấn đề này các nhà nghiên cứu cố gắng tìm cách thay thế tảo bằng các thức ăn nhân tạo làm thức ăn bổ sung hoặc thay thế hoàn toàn tảo. Sử dụng men bánh mì làm thức ăn cho luân trùng Men bánh mì là những tế bào nấm men có kích thước 5-7 µm có hàm lượng protein cao (45-52%) và rẻ tiền được sử dụng làm thức ăn cho luân trùng. Tuy nhiên, nếu chỉ cho luân trùng ăn hoàn toàn bằng men bánh mì thì năng suất không ổn định và quần thể luân trùng mau tàn (Hirayama, 1987; Komis, 1992). Nguyên nhân chủ yếu là do khó quản lý chất lượng nước nuôi, men bánh mì khó tiêu cần trợ giúp thêm vi khuẩn tiêu hóa. Hơn nữa, bản thân men bánh mì có giá trị dinh dưỡng kém (chỉ giàu protein, thiếu các thành phần khác). Mặt khác, luân trùng chỉ ăn men bánh mì có tốc độ sinh trưởng và sinh sản thấp, điều này dẫn đến phải kéo dài chu kỳ nuôi mới đạt được mật độ mong muốn. Cho ăn bằng men tươi thì tốt hơn men khô nhưng khó quản lý chất lượng nước và sự phát triển của vi khuẩn trong hệ thống nuôi. Khi cho ăn bằng men bánh mì rất khó giải quyết việc dư thừa thức ăn, điều này dễ nhận biết do thành bể nuôi có độ nhớt cao, nước có mùi hôi và thức ăn dư đóng thành cục trôi nổi trong nước (Hoff và Snell, 2004). ĐH Bạc Liêu 20 Nuôi thức ăn tự nhiên
nguon tai.lieu . vn