Xem mẫu

Trung tâm Đào tạo E-Learning Cơ hội học tập cho mọi người BÀI 3: TÍN DỤNG – LÃI SUẤT TÍN DỤNG Hướng dẫn:  Kiểm tra lại các kiến thức cơ bản trong hai môn học Kinh tế học vĩ mô và Kinh tế học vi mô.  Tìm hiểu về diễn biến của lãi suất trên thị trường tài chính Việt Nam trong thời gian qua.  Xem lại các khái niệm về công cụ tài chính tại bài 1. Nội dung:  Tìm hiệu về bản chất và chức năng lãi suất và tín dụng.  Nghiên cứu sự khác biệt giữa các loại lãi suất và vai trò của lãi suất đối với tăng trưởng kinh tế.  Nghiên cứu các hình thức tín dụng và vai trò của nó đối với nền kinh tế.  Tìm hiểu mối quan hệ giữa lãi suất và tín dụng trong thời gian qua tại Việt Nam. Mục tiêu : Học viên sau khi nghiên cứu xong bài này cần phải:  Hiểu được khái niệm lãi suất và các loại lãi suất khác nhau.  Nẵm vững được các hình thức tín dụng.  Hiểu được vài trò lãi suất và tín dụng đối với nền kinh tế.  Hiểu được biến động thức tế của lãi suất và tín dụng trên thị trường tài chính Nội dung: I. TÍN DỤNG 1.Khái niệm tín dụng - Tín dụng là quan hệ sử dụng vốn lẫn nhau giữa người cho vay và người đi vay dựa trên nguyên tắc hoàn trả. Lý thuyết tài chính tiền tệ - Bài 3 Trang 1 Trung tâm Đào tạo E-Learning Cơ hội học tập cho mọi người - Tín dụng là một giao dịch giữa hai bên, trong đó một bên (người cho vay) chu cấp tiền hay hàng hóa dựa vào lời hứa thanh toán lại trong tương lai của bên kia (người đi vay). Định nghĩa tín dụng thể hiện ở ba nội dung cơ bản: - Có sự chuyển giao quyền sử dụng một lượng vốn từ người này sang người khác. - Sự chuyển giao này mang tính chất tạm thời. Đó là thời gian sử dụng vốn. Nó là kết quả của sự thỏa thuận giữa các đối tác tham gia quá trình chuyển nhượng để đảm bảo sự phù hợp giữa thời gian nhàn rỗi và thời gian cần sử dụng lượng vốn đó. - Người đi vay phải hoàn trả đúng hạn cho người cho vay cả vốn, gốc và lãi. 2. Bản chất tín dụng Tín dụng tồn tại trong nhiều phương thức sản xuất khác nhau, nhưng ở bất cứ phương thức nào tín dụng cũng biểu hiện ra bên ngoài như là sự vay mượn tạm thời một vật hoặc một số vốn tiền tệ, nhờ vậy mà người ta có thể sử dụng được giá trị của hàng hoá hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua trao đổi. * Sự vận động của tín dụng Tín dụng là một quan hệ kinh tế giữa người cho vay và người đi vay, giữa họ có mối quan hệ với nhau thông qua vận động giá trị vốn tín dụng được biểu hiện dưới hình thức tiền tệ hoặc hàng hoá. Quá trình vận động đó được thể hiện qua các giai đoạn sau: Thứ nhất, phân phối tín dụng dưới hình thức cho vay. Ở giai đoạn này, vốn tiền tệ hoặc giá trị vật tư hàng hoá được chuyển từ người cho vay sang người đi vay. Như vậy khi cho vay, giá trị vốn tín dụng được chuyển sang người đi vay, đây là một đặc điểm cơ bản khác với việc mua bán hàng hoá thôn thường. Thứ hai, sử dụng vốn tín dụng trong quá trình tái sản xuất. Sau khi nhận được giá trị vốn tín dụng, người đi vay được quyền sử dụng giá trị đó để thoả mãn một mục đích nhất định. Tuy nhiên người đi vay không có quyền sở hữu về giá trị đó, mà chỉ tạm thời sử dụng trong một thời gian nhất định. Lý thuyết tài chính tiền tệ - Bài 3 Trang 2 Trung tâm Đào tạo E-Learning Cơ hội học tập cho mọi người Thứ ba, sự hoàn trả của tín dụng. Đây là giai đoạn kết thúc một vòng tuần hoàn của tín dụng. Sau khi vốn tín dụng đã hoàn thành một chu kỳ sản xuất để trở về hình thái tiền tệ, thì người đi vay hoàn trả lại cho người cho vay. Như vậy sự hoàn trả của tín dụng là đặc trưng thuộc về bản chất vận động của tín dụng, là dấu ấn phân biệt phạm trù tín dụng với các phạm trù kinh tế khác. * Hoạt động của tín dụng trong phạm vi vĩ mô Cung của quỹ cho vay: trong nền kinh tế thị trường, cung của quĩ cho vay từ nhiều nguồn khác nhau: - Tiết kiệm cá nhân: thu nhập của cá nhân được chia làm hai phần là tiêu dùng và tiết kiệm. Số thu về tiết kiệm cá nhân, một phần được sử dụng để mua nhà, đất, hoặc đầu tư trực tiếp vào các chứng khoán; một phần còn lại được đầu tư gián tiếp vào thị trường vốn và tiền tệ thông qua các ngân hàng, công ty tài chính, quỹ kiệm, HTX tín dụng… - Tiết kiệm của nhà doanh nghiệp: tổng số tiết kiệm của nhà doanh nghiệp là phần lợi nhuận không chia và khấu hao; số tiền tiết kiệm này khi nhà doanh nghiệp chưa sử dụng đến thì có thể trở thành một bộ phận của quỹ cho vay thông qua thị trường vốn và tiền tệ. - Mức thặng dư của ngân sách nhà nước. Mức thặng dư của NSNN bằng thu nhập trừ đi chi phí về hàng hoá và dịch vụ. - Mức tăng của khối lượng tiền tệ cung ứng. Cơ sở để tính mức tăng này là khối lượng tiền tệ lưu thông ngoài ngân hàng và tiền trên tài khoản séc. Cầu về quỹ cho vay: Trong nền kinh tế hàng hoá-tiền tệ, cầu về quĩ cho vay khá phong phú, đa dạng Nhu cầu đầu đầu tư của doanh nghiệp. Khu vực doanh nghiệp đóng vai trò quan trọng nhất về nhu cầu của quỹ cho vay. Nhu cầu tín dụng tiêu dùng cá nhân. Ở các nước phát triển tín dụng tiêu dùng chiếm một tỷ trọng đáng kể. Lý thuyết tài chính tiền tệ - Bài 3 Trang 3 Trung tâm Đào tạo E-Learning Cơ hội học tập cho mọi người + Thâm hụt Ngân sách của Chính phủ: khi NSNN bị thâm hụt Nhà nước phải đi vay thông qua phát hành công trái hay trái phiếu kho bạc để bù đắp khoản bội chi hàng năm. + Ngoài ra mức giảm khối lượng tiền tệ cung ứng và mức tăng dự trữ tiền tệ cũng là hai thành phần của số cầu. Đặc điểm của quỹ cho vay: Quỹ cho vay biểu hiện quan hệ giữa những người tham gia quá trình tái sản xuất, bao gồm các doanh nghiệp sản xuất và lưu thông hàng hoá cũng như Nhà nước và dân cư. Mục đích sử dụng quỹ cho vay là nhằm thoả mãn nhu cầu vốn tiền tệ tạm thời cho sản xuất và tiêu dùng. Quĩ cho vay có các đặc điểm cơ bản sau: - Quỹ cho vay chủ yếu tập trung và phân phối thông qua các tổ chức tài chính tín dụng. Trong nền sản xuất hàng hoá hiện đại, phân phối quỹ cho vay thường được thực hiện bằng hai cách: (1) Phân phối trực tiếp như mua trái phiếu doanh nghiệp và (2) Qua các tổ chức trung gian như ngân hàng, công ty tài chính, quỹ tiết kiệm, quỹ bảo hiểm xã hội, HTX tín dụng và các tổ chức tài chính khác. Trong đó việc phân phối qua các tổ chức trung gian chiếm đại bộ phận. - Quỹ cho vay vận động trên cơ sở hoàn trả và có lãi suất. Sự hoàn trả là đặc trưng riêng của quỹ tín dụng, đồng thời nó phản ánh bản chất vận động của quỹ cho vay. Tuần hoàn và chu chuyển vốn trong nền kinh tế quyết định khả năng hoàn trả của tín dụng. Về hình thức, sự hoàn trả được thực hiện trên cơ sở thoả thuận bằng hợp đồng tín dụng giữa người cho vay và người đi vay. 3. Sự ra đời và phát triển của tín dụng Tín dụng nặng lãi phát triển và trở thành một hình thức cho vay phổ biến trong chế độ chiếm hữu nô lệ và phong kiến. Trong thời gian đầu tín dụng nặng lãi được thực hiện bằng hiện vật – hàng hóa. Về sau theo quá trình phát triển của nền kinh tế, vừa cho vay bằng hàng hóa, vừa cho vay bằng tiền. Do lãi suất quá cao, nên tiền vay chỉ được sử dụng vào mục đích tiêu dùng cấp bách, hoàn toàn không mang mục đích sản Lý thuyết tài chính tiền tệ - Bài 3 Trang 4 Trung tâm Đào tạo E-Learning Cơ hội học tập cho mọi người xuất. Mặt khác, cũng do lãi suất quá cao, cho nên những người đi vay đều rơi vào tình trạng phá sản. Vì vậy, tín dụng nặng lãi đã trở thành một nhân tố làm suy giảm sức sản xuất xã hội. Song nó cũng có tác dụng tích cực là góp phần quan trọng vào quá trình làm tan rã “kinh tế tự nhiên”, mở rộng quan hệ hàng hóa – tiền tệ và tạo tiền đề vật chất cho chủ nghĩa tư bản ra đời. Tín dụng tư bản chủ nghĩa ra đời và phát triển từng bước đáp ứng nhu cầu về vốn cho các nhà tư bản, chủ thể kinh tế, Nhà nước…với mức lãi suất thấp. Nó biểu hiện sự phân chia quyền lợi kinh tế một cách bình đẳng giữa các bên tham gia vào quá trình thực hiện quan hệ tín dụng này. Chính vì vậy, tín dụng tư bản chủ nghĩa không những mang tính chất sản xuất, mà còn là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Ngày nay, do sự phát triển và hiện đại hóa nên kinh tế, đòi hỏi các quan hệ và các hình thức tín dụng trong kinh tế thị trường cũng phát triển đa dạng và phong phú phù hợp với yêu cầu nên kinh tế quốc dân và hội nhập kinh tế quốc tế. Sự tồn tại và phát triển của tín dụng trong kinh tế thị trường là tất yếu khách quan bởi các lý do sau: - Do mâu thuẫn của quá trình tuần hoàn vốn trong xã hội. Quá trình tuần hoàn vốn trong xã hội bao giờ cũng nảy sinh hai hiện tượng trái ngược nhau. Đó là, cùng một lúc có chủ thể kinh tế tạm thời thừa vốn, trong khi đó các chủ thể kinh tế khác lại tạm thời thiếu vốn, có nhu cầu cần bổ sung vốn. Tình trạng thừa, thiếu vốn xảy ra thường xuyên trong quá trình hoạt động của các doanh nghiệp, hộ gia đình, ngân sách nhà nước…xuất phát từ sự không ăn khớp giữa thu nhập và chi tiêu về thời gian cũng như khối lượng. Mâu thuẫn trên được giải quyết thông qua tín dụng là thích hợp nhất. Bằng cách đó tín dụng là cầu nối cần thiết giữa tiết kiệm với nhu cầu đầu tư của xã hội. - Tín dụng tác động đến việc tăng cường chế độ hạch toán kinh tế. Tác động của tín dụng đến việc tăng cường chế độ hạch toán kinh tế trên các mặt: Lý thuyết tài chính tiền tệ - Bài 3 Trang 5 ... - tailieumienphi.vn
nguon tai.lieu . vn