Xem mẫu
Trung tâm Đào tạo E – Learning Cơ hội học tập cho mọi người
BÀI 2:
TIỀN TỆ - CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ - LẠM PHÁT
Hướng dẫn:
KiểmtralạikiếnthứcvềcungtiềnvàcầutiêntrongmônhọcKinhtếhọcvĩmô.
Tìm hiểu về chính sách tiền tệ tại Việt Nam thông qua trang web của Ngân hàng nhà nước
Liên hệ tình huống thực tế và làm các bài tập thực hành để tăng khả năng vận dụng lý thuyết vào thực tế.
Nội dung:
Tìm hiệu khái niệm và các hình thái tiền tệ trong quá khứ và hiện tại.
Nghiên cứu về cung tiền và cầu tiền thực tế.
Nghiên cứu vai trò của chính sách tiền tệ và các công cụ của chính sách tiền
tệ trong nền kinh tế.
Tìm hiểu lạm phát và các dạng lạm phát cũng như tác động của lạm phát đến
nền kinh tế.
Mục tiêu :
Học viên sau khi nghiên cứu xong bài này cần phải:
Hiểu được khái niệm tiền tệ, khối lượng tiền. Chính sách tiền tệ đối với nền kinh tế.
Hiểu rõ được khái niệm lạm phát và tác động của lạm phát đến nền kinh tế.
Lý thuyết tài chính tiền tệ - Bài 2 Trang 1
Trung tâm Đào tạo E – Learning Cơ hội học tập cho mọi người
Nội dung:
I. TIỀN TỆ
1. Khái niệm và bản chất của tiền tệ
Tiền là bất cứ một phương tiện nào được xã hội chấp nhận làm phương tiện trao đổi với mọi hàng hóa, dịch vụ và các khoản thanh toán khác trong nền kinh tế.
Tiền tệ – kim loại vàng là sản phẩm của lao động con người có đầy đủ hai thuộc tính: giá trị và giá trị sử dụng. Nhưng là hàng hóa đặc biệt, bởi lẽ tiền có giá trị sử dụng đặc biệt, dùng nó người ta có thể trao đổi với bất cứ hàng hóa nào.
Do nền kinh tế hàng hóa là một thực thể đầy biến động. Nó tồn tại và phát triển bị chi phối bởi nhiều quy luật khách quan. Khi sản xuất và trao đổi hàng hóa phát triển đến giai đoạn cao, nền kinh tế thị trường được hình thành theo đúng nghĩa của nó thì quá trình phi vật chất của tiền tệ cũng đồng thời diễn ra một cách tương ứng. Nghĩa là vai trò của tiền vàng theo xu hướng giảm dần và tăng cường sử dụng các loại dấu hiệu trong lưu thông. Cho nên, định nghĩa trên là phù hợp với lưu thông tiền tệ trong nền kinh tế thị trường phát triển.
2. Các hình thái tiền tệ
Trước hết phải thừa nhận tiền được mọi người chấp nhận là những dạng
vật chất quen thuộc và có ích với tất cả mọi người, hoặc được mọi người đánh giá cao về mặt giá trị.
- Hoá tệ là lấy hàng hoá làm tiền tệ, đây là hình thái đầu tiên của tiền tệ và
được sử dụng trong một thời gian dài. Hàng hoá được sử dụng làm tiền tiền tệ có
2 loại : Hàng hoá không phải kim loại và kim loại.
- Tín tệ là loại tiền tệ mà bản thân nó không có giá trị, hoặc giá trị của nó
rất nhỏ không đáng kể, nhưng nhờ sự tín nhiệm của mọi người mà nó được lưu
dụng. Tín tệ có 2 loại là tiền kim loại ( dùng kim loại để đúc thành tiền) và tiền giấy ( sử dụng giấy để làm tiền). Giá trị của tiền không phụ thuộc vào nguyên
Lý thuyết tài chính tiền tệ - Bài 2 Trang 2
Trung tâm Đào tạo E – Learning Cơ hội học tập cho mọi người
liệu làm tiền mà nó phụ thuộc vào những dấu hiệu ghi trên mặt đồng tiền do nhà nước quy định.
- Bút tệ (tiền ghi sổ): đây là những khoản tiền gửi không kỳ hạn ở ngân
hàng. Đó là tiền do hệ thống ngân hàng thương mại tạo ra trong quá trình thực
hiện nghiệp vụ tín dụng. Việc sử dụng đồng tiền ghi sổ được thực hiện bằng các
bút toán ghi Nợ, ghi Có trên các tài khoản tiền gửi không kỳ hạn ở ngân hàng.
- Tiền điện tử: các ngân hàng đã có thể thay thế phương thức thanh toán
truyền thống sử dụng các chứng từ giấy bằng phương thức thanh toán điến tử (Electronic means of payment), điều kiện cần là cá nhân và tổ chức cần thanh toán có tài khoản tại ngân hàng. Các giao dịch chuyển tiền sẽ được thực hiện trên hệ thống máy tính kết nối hệ thống ngân hàng.
Trong khi tiền được hiểu tương đối hẹp, thì cách sử dụng tiền thì có ý nghĩa rất
rộng, có thể thông qua ví dụ sau để hiểu được. Nếu như một ai đó nói “trong túi
tôi có rất nhiều tiển” có nghĩa là anh ta đang nói đến tiền mặt được mang theo
trong người. Còn nếu anh ta nói “tôi kiếm được rất nhiểu tiền” điều này có thể hiểu là thu nhập của anh ta. Trong trương hợp anh ta nói “tôi có rất nhiều tiền” thì lại là đang nói về của cải của anh ta có được bao gồm cả bất động sản, tiền trong tài khoản, tranh nghệ thuật, trang sức bằng kim loại quý.
Từ đó, các nhà kinh tế và những người sản xuất kinh doanh bắt đầu nghĩ và đưa ra những tiêu chuẩn tiện lợi mà tiền – với tư cách là vật trung gian trao đổi – cần phải có, đó là:
- Phải có giá trị thực tế
- Dễ sử dụng trong tự nhiên
- Dễ vận chuyển và không quá cồng kềnh
- Có thể chia nhỏ phục vụ cho việc giao dịch thông thường hàng ngày - Có thể tồn tại lâu dài và không hư hại
Lý thuyết tài chính tiền tệ - Bài 2 Trang 3
Trung tâm Đào tạo E – Learning Cơ hội học tập cho mọi người
Từ những tiêu chuẩn trên có thể thấy được rất nhiều thứ đã là tiền bây giờ trở nên không thích hợp, tiền đá khó vận chuyển và không có giá trị thực tế. Bò hay lừa khó vận chuyển và khó chia nhỏ và không thể tồn tại lâu dài.
3. Chức năng của tiền
* Phương tiện trao đổi: tiền tệ được sử dụng như một vật môi giới trung gian
trong việc trao đổi các hàng hoá, dịch vụ. Đây là chức năng đầu tiên của tiền
tệ, nó phản ánh lý do tại sao tiền tệ lại xuất hiện và tồn tại trong nền kinh tế
hàng hoá. Để thực hiện chức năng phương tiện trao đổi tiền phải có những tiêu chuẩn nhất định:
- Được chấp nhận rộng rãi
- Dễ nhận biết
- Có thể chia nhỏ
- Dễ vận chuyển, không bị hư hỏng một cách nhanh chóng
- Được tạo ra hàng loạt một cách dễ dàng và có tính đồng nhất.
* Chức năng phương tiện lưu giữ giá trị: Để được thừa nhận là một phương tiện
trao đổi tiền buộc phải có tính chất bảo tồn giá trị. Chúng ta sẽ không dám chấp
nhận tiền nếu nó chỉ có hiệu lực trao đổi trong ngày hôm nay mà không thể dùng
để trao đổi từ ngày mai trở đi. Là một phương tiện dự trữ giá trị, tiền tệ là
nơi cất giữ sức mua qua thời gian.
Việc thực hiện chức năng phương tiện dự trữ giá trị của tiền tốt đến đâu tuỳ thuộc
vào sự ổn định của mức giá chung, do giá trị của tiền được xác định theo khối
lượng hàng hoá mà nó có thể đổi được. Khi mức giá tăng lên, giá trị của tiền sẽ
giảm đi và ngược lại. Sự mất giá nhanh chóng của tiền sẽ làm cho người ta ít
muốn giữ nó, điều này thường xảy ra khi lạm phát cao. Vì vậy để tiền thực hiện
tốt chức năng này, đòi hỏi sức mua của tiền phải ổn định. Với chức năng này có
Lý thuyết tài chính tiền tệ - Bài 2 Trang 4
Trung tâm Đào tạo E – Learning Cơ hội học tập cho mọi người
thể thấy tiền cũng là một loại tài sản như những tài sản khác chỉ là nó không sinh lời theo thời gian.
* Thước đo giá trị: giá trị của tiền tệ được sử dụng làm chuẩn để đo lường giá trị
của các hàng hóa khác. Thông qua quan hệ so sánh này giá trị của các hàng hóa
được biểu hiện thành giá cả hàng hóa. Thực hiện chức năng thước đo giá trị, tiền
tệ là thước đo hao phí lao động xã hội kết tinh trong các hàng hóa. Muốn thực
hiện được chức năng này, tiền tệ có những đặc điểm sau đây:
- Có giá trị nội tại
- Tiêu chuẩn giá cả
- Khi thực hiện chức năng thước đo giá trị, tiền tệ đã làm cho mọi hàng
hóa đều có một tiếng nói chung đó là giá cả. Giá cả của hàng hóa, là giá trị của
hàng hóa được biểu hiện bằng tiền. Thực chất giá cả của hàng hóa là tỷ lệ so sánh
giữa giá trị của nó với giá trị tiền tệ hay nói cách khác giá cả của hàng hóa là một
đại lượng tỉ lệ thuận với giá trị của hàng hóa và tỷ lệ nghịch với giá trị của tiền tệ.
* Chức năng phương tiện thanh toán: chức năng này là chức năng gộp của hai chức năng: trung gian trao đổi và đơn vị tính toán. Tuy nhiên, các nhà kinh tế học tiền tệ vẫn muốn tách nó riêng ra để phản ánh một tính chất điển hình của tiền: tiền là phiếu nợ.
* Công cụ để điều tiết nền kinh tế: số lượng tiền tệ được cung ứng cho mỗi thời
điểm của nền kinh tế tùy thuộc vào hai điều:
- Nhu cầu tiền của nền kinh tế vào thời điểm đó. Điều này phụ thuộc vào
tình trạng hoạt động của nền kinh tế. Nhân tố này thường rất thụ động.
- Số lượng cung ứng tiền phụ thuộc vào quyết định của mỗi chính phủ thông qua ngân hàng trung ương của mình, và đây là nhân tố xác định chủ động.
4. Khối lượng tiền
* Các phép đo khối tiền tệ được đưa ra tuỳ thuộc vào các phương tiện được hệ
thống tài chính cung cấp và thường xuyên có sự thay đổi cho phù hợp, nhưng
Lý thuyết tài chính tiền tệ - Bài 2 Trang 5
...
- tailieumienphi.vn
nguon tai.lieu . vn