Xem mẫu

  1. Bảo hiểm là những quan hệ kinh tế gắn liền với quá trình hình thành, phân phối và sử dụng các quỹ tập trung - quỹ bảo hiểm - nhằm xử lý các rủi ro, các biến cố. Bảo hiểm bảo đảm cho quá trình tái sản xuất và đời sống của xã hội được diễn ra bình thường. Bảo hiểm là biện pháp chia sẻ rủi ro của một người hay của số một ít người cho cả cộng đồng những người có khả năng gặp rủi ro cùng loại; bằng cách mỗi người trong cộng đồng góp một số tiền nhất định vào một quỹ chung và từ quỹ chung đó bù đ ắp thiệt hại cho thành viên trong cộng đồng không may bị thiệt hại do rủi ro đó gây ra. Bảo hiểm là một cách thức trong quản trị rủi ro, thuộc nhóm biện pháp tài trợ r ủi ro, được sử dụng để đối phó với những rủi ro có tổn thất, thường là tổn thất về tài chính, nhân mạng,... Bảo hiểm được xem như là một cách thức chuyển giao rủi ro tiềm năng một cách công bằng từ một cá thể sang cộng đồng thông qua phí bảo hiểm. Các khái niệm Có rất nhiều định nghĩa khác nhau về bảo hiểm được xây dựng dựa trên từng góc độ nghiên cứu xã hội, pháp lý, kinh tế, kĩ thuật, nghiệp vụ...)  Định nghĩa 1: Bảo hiểm là sự đóng góp của số đông vào sự bất hạnh của số ít  Định nghĩa 2: Bảo hiểm là một nghiệp vụ qua đó, một bên là người được bảo hiểm cam đoan trả một khoản tiền gọi là phí bảo hiểm thực hiện mong muốn đ ể cho mình hoặc để cho một người thứ 3 trong trường hợp xẩy ra rủi ro sẽ nhận được một khoản đền bù các tổn thất được trả bởi một bên khác: đó là người bảo hiểm. Người bảo hiểm nhận trách nhiệm đối với toàn bộ rủi ro và đ ền bù các thi ệt hại theo các phương pháp của thống kê  Định nghĩa 3: Bảo hiểm có thể định nghĩa là một phương sách hạ giảm rủi ro bằng cách kết hợp một số lượng đầy đủ các đơn vị đối tượng để biến tổn thất cá thể thành tổn thất cộng đồng và có thể dự tính được Các định nghĩa trên thường thiên về một góc độ nghiên cứu nào đó (hoặc thiên về xã hội - định nghĩa 1, hoặc thiên về kinh tế, luật pháp - định nghĩa 2, hoặc thiên về kỹ thuật tính - định nghĩa 3). [1] Theo các chuyên gia Pháp[cần dẫn nguồn], một định nghĩa vừa đáp ứng được khía cạnh xã hội (dùng cho bảo hiểm xã hội) vừa đáp ứng được khía cạnh kinh tế (dùng cho bảo hiểm thương mại) và vừa đầy đủ về khía cạnh kỹ thuật và pháp lý có thể phát biểu như sau: Bảo hiểm là một hoạt động qua đó một cá nhân có quyền được hưởng trợ cấp nhờ vào một khoản đóng góp cho mình hoặc cho người thứ 3 trong trường hợp xảy ra rủi ro.
  2. Khoản trợ cấp này do một tổ chức trả, tổ chức này có trách nhiệm đối với toàn bộ các rủi ro và đền bù các thiệt hại theo các phương pháp của thống kê [sửa]Đặc điểm của bảo hiểm  Bảo hiểm là một loại dịch vụ đặc biệt;  Bảo hiểm vừa mang tính bồi hoàn, vừa mang tính không bồi hoàn; [sửa]Vai trò của bảo hiểm  Bảo toàn vốn sản xuất kinh doanh và ổn định đời sống c ủa người tham gia bảo hiểm;  Đề phòng và hạn chế tổn thất;  Bảo hiểm là một công cụ tín dụng;  Góp phần thúc đẩy phát triển quan hệ kinh tế giữa các nước thông qua hoạt động tái bảo hiểm. [sửa]Các Hình thức bảo hiểm [sửa]Bảo hiểm kinh doanh [sửa]Khái niệm bảo hiểm kinh doanh Trên góc độ tài chính, bảo hiểm kinh doanh là một hoạt động dịch vụ tài chính nh ằm phân phối lại những tổn thất khi rủi ro xảy ra. Trên góc độ pháp lý, bảo hiểm kinh doanh thực chất là một bản cam kết mà một bên đồng ý bồi thường cho bên kia khi gặp rủi ro nếu bên kia đóng phí bảo hiểm. Do đó, bảo hiểm kinh doanh là các quan hệ kinh tế gắn liền với việc huy động các nguồn tài chính thông qua sự đóng góp c ủa các t ổ chức và cá nhân tham gia bảo hiểm. [sửa]Đặc điểm của bảo hiểm kinh doanh  Người tham gia bảo hiểm phải đóng phí bảo hiểm;  Là một biện pháp hiệu quả nhất cho nhu cầu phát triển sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và an toàn với đời sống cộng đồng. [sửa]Nguyên tắc của bảo hiểm kinh doanh  Bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người tham gia bảo hiểm cũng nh ư doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm;  Doanh nghiệp bảo hiểm hoạt động theo nguyên tắc hạch toán kinh doanh;  Doanh nghiệp bảo hiểm hoạt động tuân theo luật pháp quy định cho doanh nghiệp nói chung, và cho doanh nghiệp bảo hiểm nói riêng;  Doanh nghiệp bảo hiểm hoạt động theo nguyên tắc lấy số đông bù số ít;  Doanh nghiệp bảo hiểm phải tuân thủ nguyên tắc an toàn tài chính. [sửa]Hình thức của bảo hiểm kinh doanh
  3. Căn cứ vào đối tượng bảo hiểm Bảo hiểm tài sản: 1.  Bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu;  Bảo hiểm thân tàu, thuyền, ô tô,...;  Bảo hiểm hỏa hoạn. Bảo hiểm trách nhiệm dân sự; 2. Bảo hiểm con người: 3.  Bảo hiểm nhân thọ;  Bảo hiểm phi nhân thọ. Căn cứ vào tính chất hoạt động Bảo hiểm tự nguyện; 1. Bảo hiểm bắt buộc. 2. [sửa]Cơ chế, phân phối và sử dụng quỹ bảo hiểm kinh doanh Cơ chế hình thành quỹ bảo hiểm kinh doanh  Vốn kinh doanh;  Doanh thu và thu nhập. Phân phối và sử dụng quỹ bảo hiểm kinh doanh  Ký quỹ;  Quỹ dự trữ bắt buộc;  Bồi thường tổn thất và trả tiền bảo hiểm;  Dự phòng nghiệp vụ;  Nghĩa vụ đối với ngân sách nhà nước;  Chế độ phân phối lợi nhuận. [sửaBảo hiểm xã hội [sửa]Khái niệm bảo hiệm xã hội Bảo hiểm xã hội là loại hình bảo hiểm do nhà nước tổ chức và quản lý nhằm thỏa mãn các nhu cầu vật chất ổn định cuộc sống của người lao động và gia đình họ khi gặp những rủi ro làm giảm hoặc mất khả năng lao động. [sửa]Hệ thống các chế độ bảo hiểm xã hội Theo khuyến nghị của Tổ chức Lao động Quốc tế ILO tại Công ước Giơnevơ năm 1952  Chăm sóc y tế;  Trợ cấp ốm đau;  Trợ cấp thất nghiệp;
  4. Trợ cấp tuổi già;   Trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp;  Trợ cấp gia đình;  Trợ cấp sinh sản;  Trợ cấp tàn phế;  Trợ cấp cho người bị mất người nuôi dưỡng. Ở Việt Nam, Bảo hiểm Xã hội Việt Nam thực hiện 6 chế độ  Bảo hiểm thất nghiệp;  Trợ cấp ốm đau;  Trợ cấp thai sản;  Trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp;  Trợ cấp hưu trí;  Trợ cấp tử tuất. [sửa]Cơ chế hình thành và sử dụng quỹ bảo hiểm xã hội Nguồn hình thành quỹ bảo hiểm xã hội  Người sử dụng lao động đóng góp;  Người lao động đóng góp một phần tiền lương của mình;  Nhà nước đóng góp và hỗ trợ. Sử dụng quỹ bảo hiểm xã hội Chi các khoản trợ cấp và chi phí cho người tham gia bảo hiểm xã hội trong các tr ường hợp:  Gặp phải các biến cố đã quy định trong chế độ bảo hiểm xã hội;  Người được bảo hiểm là thành viên của bảo hiểm xã hội;  Đóng bảo hiểm xã hội đều đặn;  Chi khác: chi quản lý, nộp bảo hiểm y tế theo quy định, chi hoa hồng đại lý, v.v... BẢO HIỂM THƯƠNG MẠI 1.1. BẢO HIỂM THƯƠNG MẠI 1.1.1. Khái niệm Bảo hiểm thương mại Bảo hiểm thương mại hay hoạt động kinh doanh bảo hiểm được thực hiện bởi các tổ chức kinh doanh bảo hiểm trên thị trường bảo hiểm thương mại. Bảo hiểm thương mại chỉ những hoạt động mà ở đó các doanh nghiệp bảo hiểm chấp nhận rủi ro trên cơ sở người được bảo hiểm đóng một khoản
  5. tiền gọi là phí bảo hiểm để doanh nghiệp bảo hiểm bồi thường hay trả tiền bảo hiểm khi xảy ra các rủi ro đã thỏa thuận trước trên hợp đồng. 1.1.2. Nội dung Bảo hiểm thương mại Nội dung của hoạt động kinh doanh bảo hiểm, ngoài mối quan hệ giữa doanh nghiệp bảo hiểm với khách hàng của mình (gọi là Người mua bảo hiểm) còn được thể hiện trong mối quan hệ giữa người bảo hiểm gốc và người nhận tái bảo hiểm khi thực hiện tái bảo hiểm và bao hàm các hoạt động của trung gian bảo hiểm như: môi giới, đại lý.... Nhà bảo hiểm thương mại hoạt động kinh doanh nhằm mục đích thu lợi nhuận trong việc đảm bảo rủi ro cho khách hàng của mình. 1.1.3. Lợi ích của Bảo hiểm thương mại Trong cuộc sống hàng ngày, lúc này hay lúc khác, dù không hề mong muốn và dù khoa học kỹ thuật có tiến bộ đến đâu, người ta vẫn có thể phải gánh chịu những rủi ro tổn thất bất ngờ. Tác động của r ủi ro làm cho con người không thu hái được kết quả như đã dự định trước và tạo ra sự ngưng trệ quá trình sản xuất, sinh hoạt của xã hội. Đó chính là tiền đề khách quan cho sự ra đ ời c ủa các loại quỹ dự trữ bảo hiểm nói chung và hoạt động bảo hiểm thương mại nói riêng. Tồn tại song song với các quỹ dự trữ khác, Bảo hiểm thương mại đóng vai trò như một công cụ an toàn thực hiện chức năng bảo vệ con người, bảo vệ tài sản cho kinh tế và xã hội. Cụ thể là: Đối với người dân, bảo hiểm đảm bảo cho họ về mặt tài chính nhằm khắc phục hậu quả khi bất ngờ gặp rủi ro tai nạn hay bệnh tật như chi phí điều trị, viện phí, thu nhập mất giảm…Bảo hiểm nhân thọ còn cung cấp những chương trình tiết kiệm và là người đại diện đầu tư mang lại lợi tức cho khách hàng.♣ Đối với các doanh nghiệp, tham gia bảo hiểm giúp các doanh nghiệp với việc bỏ ra một khoản phí bảo hiểm ổn định và nhỏ có thể hoán chuyển rủi ro - những yếu tố không ổn định và tổn thất không lường trước được sang cho nhà bảo hiểm. Nhờ vậy, các doanh nghiệp an tâm sản xuất và khi có những tổn thất xảy ra, bồi thường bảo hiểm sẽ giúp họ nhanh chóng khôi phục quá trình kinh doanh.♣ Đối với ngân hàng thương mại, bảo hiểm đảm bảo cho khả năng hoàn trả vốn vay của doanh nghiệp – người đi vay trong những trường hợp gặp rủi ro tổn thất. Mặt khác, các loại hình bảo hiểm nhân thọ còn giúp các ngân hàng an tâm triển khai các loại hình tín dụng tiêu dùng cho người dân.♣ Hoạt động bảo hiểm phát triển.góp phần cải thiện môi trường đầu tư, giảm thiểu rủi ro trong đầu tư tạo ra môi trường thuận lợi cho việc hợp tác kinh tế, kỹ thuật, thương
  6. mại và thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Mặt khác hoạt động bảo hiểm còn mang về cho kinh tế quốc dân một khoản ngoại tệ đáng kể.♣ Bảo hiểm chẳng những có tác dụng bồi thường tổn thất sau khi có rủi ro phát sinh mà còn góp phần rất lớn cho việc đề phòng rủi ro và hạn chế tổn thất. Nhà bảo hiểm thường sử dụng những chuyên gia giỏi, tổ chức các dự án nghiên cứu, tư vấn – tài tr ợ cho cơ quan quản lý nhà nước áp dụng các biện pháp phòng ngừa rủi ro và hạn chế tổn thất hoặc tư vấn cho khách hàng tăng cường quản trị rủi ro ở đơn vị mình.♣ Bên cạnh đó, các doanh nghiệp bảo hiểm với việc nắm giữ quỹ tiền tệ bảo hiểm r ất lớn nhưng tạm thời nhàn rỗi đã trở thành những nhà đầu tư lớn. Bảo hiểm vì vậy còn có vai trò trung gian tài chính là một kênh huy động và cấp vốn có hiệu cho nền kinh tế. Đặc biệt, ở nhiều nước phát triển, các nhà bảo hiểm còn bảo hiểm cho trái phiếu nhất là trái phiếu đô thị. Điều nầy làm tăng tính an toàn của trái phi ếu đô thi, giúp cho chính quyền trung ương và địa phương thu hút vốn từ dân cư, đầu tư cho các dự án y tế, giáo dục, công trình phúc lợi và cơ sở hạ tầng.♣ Với những lợi ích nói trên, bảo hiểm đã ra đời từ rất lâu và ngày càng phát triển. Trong những năm gần đây, hàng năm, trên toàn thế giới, số phí bảo hiểm thu đ ược lên đ ến hàng ngàn tỷ đô la Mỹ (năm 2001: trên 2400 tỷ), trung bình mỗi cư dân trên hành tinh chúng ta mỗi năm bỏ ra 393 USD cho việc tham gia bảo hiểm, trong đó, 235 USD cho BHNT và 158 USD cho BHPNT. Ở nhiều nước, bảo hiểm chiếm tỷ lệ đáng kể trong GDP (Ví dụ, Hàn quốc: 12%, Nhật bản: 11%, Mã lai: 5%). Hàng năm, bảo hiểm cũng đã góp phần đáng kể trong việc khắc phục hậu quả của những tổn thất đặc biệt là các tổn thất thảm họa.♣ Trước tiên, hoạt động bảo hiểm thương mại là một hoạt động thỏa thuận (nên còn gọi là bảo hiểm tự nguyện); 1.1.4. Đặc điểm của Bảo hiểm thương mại Nhìn chung, bảo hiểm thương mại có một số đặc điểm cơ bản sau: Hai là, sự tương hổ trong bảo hiểm thương mại được thực hiện trong một "cộng đồng có giới hạn", một "nhóm đóng"; Ba là, bảo hiểm thương mại cung cấp dịch vụ đảmbảo không chỉ cho các rủi ro bản thân) mà còn cho cả rủi ro tài sản và trách nhiệm dân sự. 1.1.5. Nguyên tắc hoạt động cơ bản của Bảo hiểm thương mại Hoạt động bảo hiểm nói chung, hoạt động bảo hiểm thương mại nói riêng tạo ra được một "sự đóng góp của số đông vào sự bất hạnh của số ít" trên cơ sở quy tụ nhiều người có cùng r ủi ro thành cộng đồng nhằm phân tán hậu quả tài chính của những vụ tổn thất. Số người tham gia
  7. càng đông, tổn thất càng phân tán mỏng, rủi ro càng giảm thiểu ở mức độ thấp nhất thể hiện ở mức phí bảo hiểm phải đóng là nhỏ nhất đủ để mỗi người đó không ảnh hưởng gì quan trọng đến hoạt động sinh hoạt sản xuất của mình. Hoạt đ ộng theo quy luật s ố đông, đó là nguyên tắc cơ bản nhất của bảo hiểm. Bên cạnh đó, đám đông tham gia vào cộng đồng càng lớn thể hiện nhu cầu bảo hiểm càng tăng theo đà phát tri ển của n ền kinh tế - xã hội, những người được bảo hiểm không thể và cũng không cần bi ết nhau, họ chỉ biết người quản lý cộng đồng (doanh nghiệp bảo hiểm) là người nhận phí bảo hiểm và cam kết sẽ bồi thường cho họ khi có rủi ro tổn thất xẩy ra. Hoạt đ ộng bảo hiểm thương mại tạo ra được một sự hoán chuyển rủi ro từ những người đ ược bảo hiểm qua người bảo hiểm trên cơ sở một văn bản pháp lý: Hợp đồng bảo hi ểm. Đi ều này đã tạo ra một rủi ro mới đe dọa mối quan hệ giữa 2 bên trên hợp đồng. Dịch vụ bảo hiểm thương mại là một lời cam kết, liệu lúc xảy ra tổn thất, doanh nghiệp bảo hiểm có thực hiện hoặc có khả năng thực hiện cam kết của mình hay không trong khi phí bảo hiểm đã được trả theo "nguyên tắc ứng trước". Ngược lại các rủi ro, tổn thất được bảo hiểm được minh thị rõ ràng trên hợp đồng, liệu có sự man trá của phía người được bảo hiểm hay không để nhận hưởng tiền bảo hiểm. Như vậy, mối quan hệ giữa 2 bên trên hợp đồng bảo hiểm gắn liền với sự tin tưởng lẫn nhau và điều này đòi hỏi phải đ ảm bảo nguyên tắc cơ bản thứ hai: Nguyên tắc trung thực. một tổ chức sự nghiệp của nhà nước nhằm chăm lo phúc lợi xã hội. Nói cách khác, Mối quan hệ của Bảo hiểm thương mại nẩy sinh mang tính chất tự nguyện, còn Mối quan hệ của Bảo hiểm xã hội mang tính chất bắt buộc.−1.1.5. Các nét khác nhau cơ bản giữa Bảo hiểm thương mại và Bảo hiểm xã hội a. Bảo hiểm thương mại đ ược thực hiện bởi các doanh nghiệp bảo hiểm nhằm mục đích cung cấp cho xã hội một loại hàng hóa, dịch vụ “an tòan”, trên cơ sở đó, nhà bảo hiểm tìm kiếm một khoản lợi nhuận kinh doanh bảo hiểm. Trong khi đó, Bảo hiểm xã hội được thực hiện bởi cơ quan bảo hiểm xã hội b. Nội dung bảo hiểm thương mại rất rộng. Bảo hiểm thương mại không chỉ đảm bảo cho các rủi ro về con người như Bảo hiểm xã hội mà còn đảm bảo các r ủi ro c ủa các đối tượng khác như tài sản (công trình, nhà cửa, nhà xưởng, hàng hóa, phương tiện sản xuất kinh doanh và sinh họat) và trách nhiệm (trách nhiệm công cộng, trách nhiệm sản phẩm,...); c. Bảo hiểm thương mại có mức phí, mức chi trả bồi thường phụ thuộc vào thỏa thuận phù hợp theo nhu cầu (xuất phát từ giá trị tài sản được bảo hiểm, số tiền bảo hiểm lựa chọn, mức độ quan trọng của rủi ro,...) và khả năng của Người đ ược bảo hiểm, thông thường nghĩa vụ và quyền lợi trên Hợp đồng bảo hiểm là tương xứng nhau. Ngược lại,
  8. phí bảo hiểm của Bảo hiểm xã hội được xác định theo thu nhập của người lao đ ộng (theo tỷ lệ phần trăm trên lương) chứ không theo tình trạng sức khỏe, tuổi thọ của họ. d. Mối quan hệ của Người được bảo hiểm và Người bảo hiểm trong Bảo hiểm thương mại là có thời hạn và thông thường là ngắn hạn (bảo hiểm phi nhân th ọ). Ngược l ại mối quan hệ giữa Người lao động và cơ quan bảo hiểm xã hội là dài hạn, trọn đời. e. Cộng đồng Người được bảo hiểm của Bảo hiểm thương mại là một “nhóm đóng” có giới hạn trong một thời kỳ nhất định còn đối với Bảo hiểm xã hội đó lại là một “nhóm mở” có đầu vào và đầu ra là các thế hệ người lao động nối tiếp nhau. 1.1.6. Phân lo ại Bảo hiểm thương mại Phân loại theo đối tượng bảo hiểm: Căn cứ vào đ ối t ượng bảo hiểm thì toàn bộ các loại hình nghiệp vụ bảo hiểm được chia thành ba nhóm: bảo hiểm tài sản, bảo hiểm con người và bảo hiểm trách nhiệm dân sự: (1) Bảo hiểm tài sản: là loại bảo hiểm lấy tài sản làm đối tượng bảo hiểm. Khi xảy ra rủi ro tổn thất về tài sản như mất mát, hủy hoại về vật chất, người bảo hiểm có trách nhiệm bồi thường cho người được bảo hiểm căn cứ vào giá trị thiệt hại thực tế và mức độ đảm bảo thuận tiện hợp đồng; (2) Bảo hiểm con người: đối tượng của các loại hình này, chính là tính mạng, thân thể, sức khỏe của con người. Người ký kết hợp đồng bảo hiểm, nộp phí bảo hiểm để thực hiện mong muốn nếu như rủi ro xảy ra làm ảnh hưởng tính mạng, sức khỏe của người được bảo hiểm thì họ hoặc một người thụ hưởng hợp pháp khác sẽ nhận được khoản tiền do người bảo hiểm trả. Bảo hiểm con người có thể là bảo hiểm nhân thọ hoặc bảo hiểm tai nạn – bệnh. (3) Bảo hiểm trách nhiệm dân sự: Đối tượng bảo hiểm là trách nhiệm phát sinh do ràng buộc của các quy định trong luật dân sự, theo đó, người được bảo hiểm phải b ồi thường bằng tiền cho người thứ 3 những thiệt hại gây ra do hành vi c ủa mình hoặc do sự vận hành của tài sản thuộc sở hữu của chính mình. Bảo hiểm trách nhiệm dân sự có thể là bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp hoặc bảo hiểm trách nhiệm công cộng. Phân loại theo kỹ thuật bảo hiểm: Theo cách phân loại này các loại hình bảo hiểm được chia ra làm 2 loại: loại dựa trên kỹ thuật "phân bổ" và loại dựa trên kỹ thuật "tồn tích vốn". (1) Các loại bảo hiểm dựa trên kỹ thuật phân bổ: là các loại bảo hiểm đảm bảo cho các rủi ro có tính chất ổn định (tương đối) theo thời gian và thường độc l ập v ới tuổi thọ con người (nên gọi là bảo hiểm phi nhân thọ). Hợp đồng bảo hiểm loại này th ường là ngắn hạn (một năm); (2) Các loại bảo hiểm dựa trên kỹ thuật tồn tích vốn: là các loại bảo hiểm đảm bảo cho các rủi ro có tính chất thay đổi (rõ rệt) theo thời gian và đối tượng, thường gắn liền với tuổi thọ con người (nên gọi là bảo hiểm nhân thọ). Các hợp đồng loại này th ường là
  9. trung và dài hạn (10 năm, 20 năm, trọn đời...). Phân loại theo tính chất của tiền bảo hiểm trả: (1) Các loại bảo hiểm có số tiền bảo hiểm trả theo nguyên tắc bồi thường: Theo nguyên tắc này, số tiền mà người bảo hiểm trả cho người được bảo hiểm không bao giờ vượt quá giá trị thiệt hại thực tế mà anh ta đã phải gánh chịu. Các loại bảo hiểm này gồm có: bảo hiểm tài sản và bảo hiểm trách nhiệm dân sự (gọi chung là bảo hiểm thiệt hại). Với loại bảo hiểm nầy, về nguyên tắc, người mua bảo hiểm không được ký hợp đồng trên giá hoặc bảo hiểm trùng ; (2) Các loại bảo hiểm có số tiền bảo hiểm trả theo nguyên tắc khoán: Người được bảo hiểm sẽ nhận được số tiền khoán theo đúng mức mà họ đã thỏa thuận trước trên hợp đồng bảo hiểm với người bảo hiểm tùy thuộc và phù hợp với nhu cầu cũng như khả năng đóng phí. Đây chính là các loại bảo hiểm nhân thọ và một số trường hợp của bảo hiểm tai nạn, bệnh tật. Với loại bảo hiểm nầy, về nguyên tắc, người mua bảo hiểm có thể cùng một lúc ký nhiều hợp đồng bảo hiểm cho một đối tương và không bị hạn chế số tiền bảo hiểm Phân loại theo phương thức quản lý: Với cách phân loại này, các nghiệp vụ bảo hiểm thương mại được chia làm 2 hình thức: bắt buộc và tự nguyện (1) Bảo hiểm tự nguyện: Là những loại bảo hiểm mà hợp đồng được kết lập dựa hoàn toàn trên sự cân nhắc và nhận thức của người được bảo hiểm. Đây là tính chất vốn có của bảo hiểm thương mại khi nó có vai trò như là một hoạt động dịch vụ cho sản xuất và sinh hoạt con người. (2) Bảo hiểm bắt buộc: Được hình thành trên cơ sở luật định nhằm bảo vệ lợi ích của nạn nhân trong các vụ tổn thất và bảo vệ lợi ích của toàn bộ nền kinh tế - xã h ội. Các hoạt động nguy hiểm có thể dẫn đến tổn thất con người và tài chính trầm trọng gắn liền với trách nhiệm dân sự nghề nghiệp thường là đối tượng của sự bắt buộc này. Ví dụ: bảo hiểm trách nhiện dân sự chủ xe cơ giới, trách nhiệm dân sự của thợ săn... Tuy nhiên, sự bắt buộc chỉ là bắt buộc người có đối tượng mua bảo hiểm chứ không b ắt buộc mua bảo hiểm ở đâu. Tính chất tương thuận của hợp đồng bảo hiểm được ký kết vẫn còn nguyên vì người được bảo hiểm vẫn tự do lựa chọn nhà bảo hiểm cho mình. [sửa]Bảo hiểm y tế [sửa]Khái niệm bảo hiểm y tế Bảo hiểm y tế là các quan hệ kinh tế gắn liền với việc huy động các nguồn tài l ực t ừ sự đóng góp của những người tham gia bảo hiểm để hình thành quỹ bảo hiểm, và sử
  10. dụng quỹ để thanh toán các chi phí khám chữa bệnh cho người được bảo hiểm khi ốm đau. Đặc điểm của bảo hiểm y tế  Vừa mang tính chất bồi hoàn, vừa mang tính chất không bồi hoàn;  Quá trình phân phối quỹ bảo hiểm y tế gắn chặt với chức năng giám đ ốc bằng đồng tiền đối với mục đích tạo lập và sử dụng quỹ. Nguyên tắc hoạt động của bảo hiểm y tế  Vì quyền lợi của người tham gia bảo hiểm và bảo đảm an toàn sức khỏe cho cộng đồng;  Chỉ bảo hiểm cho những rủi ro không lường trước được, không bảo hiểm những rủi ro chắc chắn sẽ xảy ra hoặc đã xảy ra;  Hoạt động dựa trên nguyên tắc số đông bù số ít. Đối tượng của bảo hiểm y tế Đối tượng của bảo hiểm y tế là sức khỏe của người được bảo hiểm (rủi ro ốm đau, bệnh tật,...). Hình thức của bảo hiểm y tế  Bảo hiểm y tế bắt buộc;  Bảo hiểm y tế tự nguyện. Phạm vi của bảo hiểm y tế  Bảo hiểm y tế là một chính sách xã hội của mọi quốc gia trên th ế gi ới do chính phủ tổ chức thực hiện, nhằm huy động sự đóng góp của mọi tầng lớp trong xã hội để thanh toán chi phí y tế cho người tham gia bảo hiểm;  Người tham gia bảo hiểm y tế khi gặp rủi ro về sức khỏe đ ược thanh toán chi phí khám chữa bệnh với nhiều mức khác nhau tại các cơ sở y tế;  Một số loại bệnh mà người đến khám bệnh được ngân sách nhà nước đài th ọ theo quy định; cơ quan bảo hiểm y tế không phải chi trả trong trường hợp này. [sửa]Cơ chế hình thành và sử dụng quỹ bảo hiểm y tế Hình thành quỹ bảo hiểm y tế  Ngân sách nhà nước cấp;  Tài trợ của các tổ chức xã hội, từ thiện;  Phí bảo hiểm y tế của người tham gia bảo hiểm, đối với người nghỉ hưu, mất sức: do bảo hiểm xã hội đóng góp;  Phí bảo hiểm của tổ chức sử dụng người lao động. Sử dụng quỹ bảo hiểm y tế
  11. Thanh toán chi phí y tế cho người tham gia bảo hiểm theo định mức;   Chi dự trữ, dự phòng;  Chi cho đề phòng hạn chế tổn thất;  Chi phí quản lý;  Chi trợ giúp cho hoạt động nâng cấp các cơ sở y tế. [sửa]Các cam kết chung trong hợp đồng bảo hiểm [sửa]Các điều khoản loại trừ phổ biến Bảo hiểm nhân thọ:  Tử hình  Bị nhiễm HIV  Tự tử trong vòng 24 tháng  Trục lợi bảo hiểm [sửa]Các thuật ngữ bảo hiểm thường gặp trong đơn bảo hiểm Số tiền bảo hiểm Mức miễn thường/Mức khấu trừ Hạn mức trách nhiệm [sửa]So sánh với cá cược Một số người cho rằng việc tham gia bảo hiểm cũng giống như một loại cá cược. Công ty bảo hiểm sẽ đặt cược rằng bạn hoặc tài sản của bạn sẽ không phải gánh chịu tổn thất trong khi bạn đang sử dụng tiền vào việc khác. Có thể hiểu một cách đại khái rằng: sự chênh lệch giữa phí bảo hiểm và khoản tiền giới hạn trách nhiệm của công ty bảo hiểm được tính theo tỉ lệ ( tương tự như việc chơi cá ngựa với tỉ lệ 10:1). Chính vì lí do này, rất nhiều các nhóm tôn giáo (bao gồm Amish và Hồi giáo) đã không tham gia bảo hiểm, thay vào đó họ trông chờ vào sự hỗ trợ của cộng đồng khi có thảm họa xảy ra. Hay nói cách khác, cộng đồng này sẽ hỗ trợ họ phục hồi lại tổn thất bị mất. Tuy nhiên, cách thức này không hỗ trợ một cách hiệu quả đối với các rủi ro l ớn. Ngay cả các công ty bảo hiểm ở Phương Tây cũng gặp khó khăn khi đối phó với các rủi ro lớn. Ví dụ như lũ lụt xảy ra sẽ làm ảnh hưởng đến gần như toàn bộ thành phố, và công ty bảo hiểm sẽ gặp rất nhiều khó khăn khi phải thực hiện việc bồi thường. Ví dụ điển hình đó là lũ lụt ở New Orleans, 2005. Tương tự, các tổn thẩt do chiến tranh và động đất cũng bị loại trừ. Tuy nhiên, vẫn có thể bảo hiểm cho những tổn thất lũ lụt và động đất thông qua hình thức tái bảo hiểm. Trong các trò chơi cá cước, thì mức tỉ lệ đã được xác định ngay từ đầu trò chơi và không chịu tác động bởi người chơi. Còn đối với việc tham gia bảo hiểm, ví d ụ nh ư b ảo
  12. hiểm cháy, người tham gia bảo hiểm được yêu cầu là phải tìm cách giảm thiểu r ủi ro: lắp các thiết bị báo cháy và sử dụng các vật liệu chống cháy để giảm thiểu những tổn thất gây ra bởi cháy. Bên cạnh đó, doanh nghiệp bảo hiểm cũng giúp thực hiện việc giảm thiểu tổn thất khi có rủi ro gây nên. Như vây, bảo hiểm tương tự như cá cược ở góc độ rủi ro, nhưng có sự khác biệt về động cơ (tìm kiếm rủi ro hay tránh né rủi ro). Đối với trò cá cược, bạn không có sự lựa chọn nào khác hoặc thua hoặc thắng. Nhưng đối với bảo hiểm, bạn có thể quản lí r ủi ro mà bạn không thể nào tránh được hoặc rủi ro thuần túy mà bạn không đoán tr ước được khả năng xảy ra. Quản trị rủi ro là việc xác định và kiểm soát r ủi ro. Tránh né, giảm thiểu hay chuyển giao rủi ro là cách thức tạo sự dự đoán tốt hơn cho người tiêu dùng hay doanh nghiệp để họ đạt tối đa lợi ích trong các cơ hội của mình. Cá cược cũng được xem là loại rủi ro không được bảo hiểm.  Sự cần thiết của việc mua Bảo hiểm: Bảo hiểm là hình thức chuyển giao rủi ro. Mua bảo hiểm thực chất là mua sự an tâm, là đổi lấy cái sự không chắc chắn có khả năng xảy ra thiệt hại bằng sự chắc chắn thông qua việc bù đắp bằng tài chính.
nguon tai.lieu . vn