- Trang Chủ
- Sinh học
- Bài giảng Chương 5: Các phức hệ anten và quá trình chuyển hóa năng lượng
Xem mẫu
- Chương 5: CÁC PHỨC HỆ
ANTEN VÀ QUÁ TRÌNH
CHUYỂN HÓA NĂNG LƯỢNG
- I ) Khái niệm chung & khái quát
về hệ thống anten:
1. Khái niệm : phức hợp anten là các sắc tố
quang hợp tổ chức thành hệ thống thu
nhận ánh sáng và truyền năng lượng cho
trung tâm phản ứng,nơi mà xảy ra các
phản ứng oxy hóa khử để chuyển năng
lượng ánh sáng thành năng lượng hóa
học.
- 2. Lịch sử đi tìm khái niệm về anten:
ROBERT EMERSON
• 1932,Emerson
và Anold đưa
ra những khái
niệm đầu tiên
WILLIAM ARNOLD
về anten bằng
các cuộc thí
nghiệm.
- ☼từ khoảng 2500 phân tử chlorophyll 1 phân
tử O2 (khi cho A’S’ chạy lóe qua)
Giải thích: 2500 phân tử chlorophyll tiến hành
quang hóa học sản phẩm kém bền do
quá trình diễn ra rất chậm và có sự hiện
diện của enzym quang học.
- • Gaffon&Woht năm 1936 cho rằng
là không phải sản phẩm của quá
trình quang hóa hay sự hoạt động
của enzym tạo ra năng lượng mà
do sự chuyển hóa năng lượng từ
hạt sắc tố này đến các hạt sắc tố
khác
- • Xuất hiện khái niệm : Đơn vị quang học
bao gồm sự tập hợp nhiều sắc tố,trong đó
có sự kích thích năng lượng dao động lên
xuống trước khi ổn định
• Lúc bấy giờ,chưa có phương tiện kỹ thuật
nào biết đến.
- JAMES FRANCK
EDWARD TELLER
• James Franck & Edward Teller:
Trên một bài báo năm 1938,họ đã giới thiệu
những khái niệm quan trọng nhưng chủ yếu là
để khẳng định việc năng lượng được chuyển
hóa giữa những chlorophyll là không thể xảy ra.
- Hai ông đã tiến hành các cuộc thí nghiệm.
- HÌNH ẢNH MÔ TẢ 2 QUAN ĐiỂM CHÍNH CỦA CÁC NHÀ KHOA HỌC
- II) Các lớp của anten:
• Phức hệ Antenna có thể được phân chia
thành:
- Phức chất anten màng nguyên.
- Những phức chất anten màng ngoại vi
- 1} Anten màng ngoại vi:
Trong anten màng ngoại vi, phức
ăng-ten được kết hợp với các thành
phần được chôn trong màng tế bào
2} Phức chất anten màng nguyên:
Chứa đựng những Protein đi xuyên
qua mô hình hai lớp lipit .
Những sắc tố thường được chôn sâu
trong màng tế bào
- Energy
ANTEN MÀNG NGUYÊN MÀNG PHỨC CHẤT
ANTEN TÁCH RỜI
TRUNG TÂM PHẢN ỨNG
(xảy ra quang hóa)
- • Nhóm cuối cùng của những phức chất anten
màng nguyên thường được gọi là những anten
ngoại vi**(còn gọi là những anten phụ).
• Được tìm thấy thêm khi dần tới lõi.
• Nó thường có mặt trong số lượng nhiều, phụ
thuộc vào những điều kiện tăng trưởng, và có
thể di động được.
• Nó thường được tham gia vào quá trình điều
chỉnh hệ thống anten.
- III) Những chức năng vật lý
của anten :
- 1) KHÁI NIỆM
• Khái niệm phễu có thể được xem như một
cơ chế trong đó một phần năng lượng
trong sự kích thích được hy sinh dưới
dạng nhiệt trong quá trình năng lượng
được chuyển đến trung tâm lưu trữ một
thời gian ngắn
- • Phễu hấp thu tối đa ở các bước sóng ngắn.
• Theo hằng số Planck, những trạng thái bị kích động được
hình thành bởi những phôtôn bước sóng ngắn.
• Quá trình di chuyển năng lượng là từ những chất màu năng
lượng cao nằm xa trung tâm phản ứng đến những chất màu
năng lượng thấp hơn, nằm gần trung tâm phản ứng hơn.
• Với mỗi chuyển đổi, một số năng lượng bị mất đi do nhiệt, và
sự kích thích được di chuyển tới trung tâm phản ứng.
• Sự kích thích sẽ được chuyển từ những chất màu năng
lượng bậc cao đến những chất màu năng lượng thấp hơn
• Năng lượng bị mất trong mỗi bước không làm đảo ngược quá
trình, vì vậy kết quả cuối cùng của sự kích thích là vào trong
trung tâm phản ứng, nơi mà năng lượng được lưu giữ bởi
quang hóa học.
- ENERGY
- • Một hệ thống ăng-ten lớn thì đẳng năng với nơi
lưu trữ có thể hút năng lượng tốt, nhưng đa số
năng lượng bị mất vì chúng phải “đi lang thang”
xung quanh anten trước khi dần dần tìm được
đường đến nơi lưu trữ.
• Với anten phức chất trực tiếp tương tác với
phức chất trung tâm phản ứng, những anten lõi
màng nguyên hoặc những anten nóng chảy, mô
hình phễu thường hỏng. Trong các tình huống
này, năng lượng của một số hoặc tất cả các sắc
tố anten thấp hơn một số lần thực tế của nơi lưu
trữ, một số năng lượng chuyển giao là cần thiết
trước khi năng lượng có thể bị mắc kẹt. Ý nghĩa
chức năng của các sắc tố ăng-ten năng lượng
chưa được rõ ràng.
- 2) Các khái niệm của tổ chức anten,
“puddles” và “hồ” :
- • Sự sắp xếp tĩnh của một nhóm sắc tố ăng ten
gắn vĩnh viễn với một trong những trung tâm
phản ứng được gọi là mô hình “puddle”, hay
đôi khi là mô hình "các đơn vị riêng biệt",
trong đó có một trung tâm phản ứng duy nhất
và anten của nó tạo thành một thực thể độc
lập không kết nối theo bất kỳ phản ứng với
các trung tâm khác.
- • Mô hình " hồ " là trường hợp hết sức đặc biệt
của sự thông nhau . Trong mô hình này, các
trung tâm phản ứng được “nhúng” vào một “hồ
nước” của các sắc tố ăng ten, và năng lượng
hấp thụ bởi một sắc tố ăng ten có thể được
chuyển với sự cân bằng giữa bất kỳ những
trung tâm phản ứng trong “hồ”. Nếu một trong
những trung tâm đóng cửa để phản ứng quang
hoá học, năng lượng có thể được chuyển giao
cho một số khác đang mở. Mô hình “hồ” áp
dụng đối với nhiều vi khuẩn màu tím.
nguon tai.lieu . vn