Xem mẫu

  1. Bài dịch Các yếu tố ảnh hưởng đến việc sử dụng internet của các Công ty quốc tế trên thị trường chuyển tiếp tại Việt Nam Đại học Kinh tế thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam và Đại học Công nghệ Sydney, Australia 1
  2. Tóm tắt Mục đích – Nghiên cứu này khảo sát các yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến việc sử dụng internet của các công t y quốc t ế trên thị trường chuyển tiếp tại Việt Nam. Thiế t kế / phương pháp / cách ti ếp cận – Điều tra 306 Công ty quốc tế tại T P Hồ Chí Minh để kiểm tra các mô hình lý t huyết. Kết cấu mô hình phương t rình được sử dụng để phân t ích dữ liệu. Những phát hiện - Nghiên cứu này cho t hấy hai khái niệm quan t rọng trong mô hình chấp nhận công nghệ (T AM), nhận thức hữu ích và dễ dàng nhận t hức của việc sử dụng internet, có thể được sử dụng để dự đoán việc sử dụng int ernet của các tổ chức. Định hướng thị trường cũng là một yếu t ố dự báo sử dụng int ernet. Định hướng học tập tạo điều kiện nhận t hức hữu ích và dễ dàng nhận thức của việc sử dụng int ernet của các công t y quốc t ế, và do đó sử dụng của nó. Nghiê n cứu / hạn chế những tác động - T iếp t ục nghiên cứu là cần t hiết để điều tra tiền đề khác cũng như kết quả của việc sử dụng internet của các công t y quốc t ế. Ý n gh ĩa thực tiễn nghiên cứu này cho thấy rằng các chương trình hỗ trợ và đào tạo của các công t y quốc tế cần thúc đẩy sự hữu ích và dễ sử dụng của Internet, nuôi dưỡng và định hướng t hị trường và định hướng học tập, để khuyến khích họ sử dụng Internet hiệu quả trong việc theo đuổi tiếp thị thành công trên thị trường quốc t ế. Độc đáo / giá trị nghiên cứu này mở rộng khả năng giải t hích của T AM dự đoán việc sử dụng Internet của các doanh nghiệp quốc t ế. T ừ khóa định hướng thị trường, học tập, mô hình phương t rình cấu t rúc t uyến t ính, loại Giấy Việt Nam nghiên cứu giấy Gi ới thiệ u Internet, một mạng lưới toàn cầu của các máy tính liên kết với nhau hoạt động t rên một t iêu chuẩn giao thức cho phép trao đổi thông tin, cung cấp một số ứng dụng thương mại cho các công ty trên khắp thế giới (Hamill, 1997). Ví dụ, nó là một công cụ mạnh mẽ để hỗ trợ các mạng, cả trong và ngoài công ty. Kết nối Internet có thể cải thiện đáng kể thông t in liên lạc với các khách hàng hiện t ại, các nhà cung cấp nước ngoài, các đại lý và nhà phân phối. Internet có t hể giúp công t y xác định các khách hàng mới,nhà phân phối; tạo ra vô số thông tin về xu hướng thị trường, công nghệ mới nhất, nghiên cứu và phát triển kỹ thuật (Hamill năm 1997; Quelch và Klein, 1996). Int ernet cũng cung cấp một phương t iện mới để thực hiện hiệu quả nghiên cứu thị trường. Các công ty có thể tìm kiếm thông t in thị trường nước ngoài t hông qua nhiều công cụ int ernet (bằng cách giao tiếp với khách hàng nước ngoài, các nhà phân phối, nhà cung cấp, các doanh nghiệp khác và các tổ chức liên quan đến kinh doanh, bằng cách sử dụng công cụ tìm kiếm và tiến hành các cuộc điều tra on-line). Đây là nguồn thông tin rất hứa hẹn bởi vì chi phí hiệu quả và nhanh chóng (McDonald và Adam, 2003; Weible và Wallace năm 2001; Wilson và Laskey, 2003). Sự đổi mới 2
  3. của t hông tin và công nghệ truyền thông đã đưa ra một cơ hội để mua lại t hông tin đáng kể hiệu quả hơn cho các công t y trên t oàn t hế giới (Port er và Millar, 1985). Một số nghiên cứu đã điều tra các yếu t ố ảnh hưởng đến các công ty thông qua sử dụng int ernet và thành công trong tiếp thị internet quốc tế (Javalgi et al, 2005). Tuy nhiên, những nghiên cứu này tập trung chủ yếu vào các nền kinh tế tiên tiến hay công nghiệp hóa. Ít chú ý đến việc sử dụng internet của các công t y quốc tế tại các t hị trường chuyển tiếp, chẳng hạn như Việt Nam. Ngoài ra, mặc dù đã được nói về khả năng của các công nghệ chấp nhận mô hình (TAM) (Davis, 1989) dự đoán công nghệ thông t in sử dụng (Adams et al, 1992; Lucas và Spit ler, 1999), cố gắng áp dụng nó để giải t hích việc sử dụng internet của các tổ chức phần lớn đã bị bỏ qua. Để thu hẹp khoảng cách này, nghiên cứu này sử dụng một phiên bản chuyển thể của T AM để giải t hích các mức độ mà các doanh nghiệp quốc tế tại các thị trường chuyển tiếp sử dụng int ernet như thông tin và các kênh t ruyền t hông cho các hoạt động kinh doanh quốc t ế của họ. Phần còn lại của giấy được tổ chức xung quanh những điểm chính sau đây: T ài liệu nghiên cứu và giả thuyết; phương pháp, phân tích dữ liệu và kết quả, t hảo luận và ý nghĩa; hạn chế và hướng nghiên cứu trong t ương lai. Qua tài liệu và giả thuyết Hình 1 cho thấy một mô hình khái niệm giải thích việc sử dụng int ernet của các công ty quốc t ế. Cùng với nhận thức hữu ích và dễ dàng cảm nhận sử dụng, định hướng t hị trường được đề xuất là một yếu tố dự báo sử dụng int ernet. Ngoài ra, định hướng học t ập được dự kiến sẽ có một t ác động đến nhận thức hữu ích và dễ dàng nhận thức của việc sử dụng internet. Cuối cùng, định hướng học tập được dự kiến sẽ là cơ sở định hướng t hị trường. T AM và sử dụng int ernet Một số nghiên cứu về việc sử dụng các ứng dụng CNTT đã được báo cáo t rong y văn: xem Bhattacherjee (1998) để xem xét lại. T uy nhiên, T AM có một cơ sở mạnh mẽ trong lý t huyết và được hỗ trợ bởi một số lượng lớn các nghiên cứu thực nghiệm (Lucas và Spitler, 1999). Một số nghiên cứu khác cũng đã cung cấp bằng chứng hỗ trợ của T AM (Igbaria et al. 1995). Hơn nữa, hai cấu trúc chính trong T AM, nhận thức hữu dụng và nhận thức dễ sử dụng, đã được đưa ra giả thuyết là yếu t ố quyết định cơ bản của người sử dụng chấp nhận của CNTT , có thể được áp dụng rộng rãi (Adams et al., 1992). Nhận thức hữu ích định nghĩa là "mức độ mà một người t in rằng bằng cách sử dụng một hệ thống cụ thể sẽ nâng cao hoặc thực hiện công việc của mình "và nhận thức dễ sử dụng như là" mức độ mà một người t in rằng bằng cách sử dụng một hệ thống cụ thể sẽ được tự do nỗ lực "(Davis, 1989, p. 320). Nhận t hức hữu ích và dễ dàng sử dụng là những tiền đề quan t rọng về ý định sử dụng ứng dụng CNT T . Ngoài ra, một số nhà nghiên cứu đã sử dụng nhận t hức hữu ích và dễ dàng cảm nhận sử dụng để dự đoán CNT T sử dụng (Adams et al, 1992; Lucas và Spitler, 1999). Vì vậy, có thể kết luận rằng t ính hữu dụng và dễ sử dụng có thể được sử dụng để dự đoán không chỉ có ý định sử dụng mà còn sử dụng các ứng dụng CNT T . Định hướng thị H5 trường 3
  4. Nhận thức t ính H4 hữu dụng của sử dụng H8 H1 Internet Internet H6 H3 Định hướng Nhận thức t ính H2 học t ập dễ sử dụng của Internet H7 T AM giải thích cách sử dụng về các thái độ và những dự định cá nhân, nhưng không giải quyết thái độ tổ chức và hành động hướng vào mong muốn mục tiêu tổ chức. Nghiên cứu hiện tại thông qua các khái niệm về tính hữu dụng nhận thức và cảm nhận dễ dàng sử dụng áp dụng trong bối cảnh t ổ chức của Nguyễn và Barrett (2006). Cụ thể, nó tìm hiểu làm thế nào các công t y quốc t ế sử dụng internet như là một kênh thông tin về thị trường nước ngoài. Vì vậy, nhận thức hữu ích của Internet trong bối cảnh này đề cập đến mức độ mà một công ty quốc tế tin rằng việc sử dụng nó sẽ giúp đỡ để có được t hông tin liên quan về các thị trường nước ngoài cho quốc tế. Nhận thức dễ dàng sử dụng của internet trong bối cảnh tổ chức là mức độ mà các công ty quốc t ế tin rằng việc sử dụng internet để có được liên quan thông t in về thị trường nước ngoài sẽ được t ự do nỗ lực (Davis, 1989; Nguyễn và Barrett, 2006). Việc mua lại, phát triển và sử dụng thông tin và kiến thức về thị trường nước ngoài là một t rong những yếu t ố quan trọng mà giải thích sự thành công về gia t ăng của một công t y t rong các hoạt động quốc t ế (Johanson và Vahlne, 1977; Ling-yee, 2004). Điều này là do thị trường nước ngoài được đặc t rưng bởi sự tinh tế, tính không đồng nhất và bất ổn. Hơn nữa, sự khác biệt về văn hóa, quốc gia, kinh t ế, chính t rị, pháp lý xã hội và ảnh hưởng môi trường khác đã làm cho nó phức t ạp hơn và khó t hực hiện nghiên cứu thị trường quốc tế (Craig và Douglas, 2000). Như một kết quả, các công ty quốc t ế đang phải đối mặt với rủi ro lớn hơn là họ phải đối mặt trong thị trường của họ. Những khó khăn nghiêm trọng hơn đối với các doanh nghiệp trong nền kinh tế chuyển đổi, như Việt Nam, so với những người ở các nền kinh tế tiên tiến. Các công ty như vậy thường thiếu nguồn lực cho việc thu thập thông tin về thị trường nước ngoài thông qua các phương thức truyền t hống, chẳng hạn như t hử nghiệm thị trường, nghiên cứu t hị trường nước ngoài và các chuyến thăm thị trường nước ngoài, bởi vì đây là tốn kém và mất t hời gian (Nguyễn và Barrett, 2007). Các tài liệu về sự phổ biến của đổi mới (Rogers, 1983) t hừa nhận rằng, khi phải đối mặt với một vấn đề, các công ty luôn luôn cố gắng t ìm kiếm một giải pháp t hay t hế và có xu hướng áp dụng một sự đổi mới. Do đó, khi một công ty phải đối mặt với vấn đề thiếu thông tin thị trường nước ngoài, đó là mong rằng nó sẽ cố gắng, và qua đó, phát hiện ra lợi thế so sánh của mình. Sử dụng các công cụ int ernet như e-mail, công cụ tìm kiếm, khảo sát điện tử, công ty có thể để thu t hập một số lượng đáng kể thông tin thị trường nước ngoài cũng như giao tiếp một cách nhanh chóng với khách hàng nước ngoài và các đối t ác (Nguyễn và Barrett, 2006; Sørensen và Buatsi, 2002). T heo đó, công ty có thể cảm nhận được sự hữu ích của internet, và do đó có khả năng sử dụng nó. T hứ hai, các công ty có thể tin rằng nó là quá khó khăn để sử dụng int ernet, ngay cả khi nó tin rằng nó sẽ hữu ích. Kết quả là, nó có t hể được lập luận rằng nhận t hức dễ sử dụng cũng là một dự đoán t iềm năng của việc sử dụng int ernet. Hơn nữa, nó có thể được dự kiến rằng mức độ mà công ty nhận thấy rằng bằng 4
  5. cách sử dụng những công cụ int ernet cho mục đích của nó là miễn phí nỗ lực, lần lượt, sẽ ảnh hưởng đến nhận thức của nó hữu ích và sử dụng của họ. Như vậy: H1.Có một m ối quan hệ tích cực giữa tính hữu dụng nhận thức của internet và sử dụng internet. H2. Có m ột mối quan hệ tích cực giữa sự dễ dàng cảm nhận sử dụng của các internet và sử dụng internet. H3. Có m ột mối quan hệ tích cực giữa nhận thức dễ dàng sử dụng và cảm nhận hữu ích của internet. Thị trường và định h ướng h ọc tập và s ử dụng inte rne t CNTT thực hiện nghiên cứu cho thấy sử dụng tổ chức của một ứng dụng CNTT không chỉ phụ thuộc vào thái độ của tổ chức đối với việc ứng dụng CNT T , mà còn trên các tổ chức các yếu t ố, chẳng hạn như chiến lược, chính sách và hành động (Bhattacherjee năm 1998; Nguyên và Barrett, 2006). Để giải quyết vấn đề này, nghiên cứu báo cáo ở đây cố gắng xem xét những t ác động của hai yếu t ố tổ chức học t ập định hướng và định hướng t hị trường về việc sử dụng internet của các công t y quốc t ế. Một số các khái niệm định hướng t hị trường có t hể được t ìm thấy t rong các t ài liệu (Narver và Slater, 1990; Jaworski và Kohli 1993). Ví dụ, trước đây thừa nhận rằng định hướng t hị trường là một nền văn hóa tổ chức tập trung một công ty khách hàng, các đối thủ cạnh tranh và sự phối hợp giữa các phòng ban chức năng trong công t y. Cách thứ hai cho rằng định hướng t hị trường bao gồm ba hoạt động t ổ chức rộng: thế hệ của thông tin thị trường, phổ biến thông minh t rên t oàn công t y và đáp ứng với nó. Những định hình cho rằng các doanh nghiệp theo định hướng thị trường liên t ục t hu t hập t hông t in thị trường - nhu cầu của khách hàng và đối thủ cạnh tranh khả năng, ví dụ - và sử dụng thông tin này để tạo ra và cung cấp vượt trội giá trị cho khách hàng (Sinkula et al, 1997; Slater và Narver, 1995). định hướng t hị trường có thể được xem như một hình thức của hành vi sáng tạo, có nghĩa là, một tiền đề cho sự đổi mới - Bởi vì nó liên quan đến việc làm một cái gì đó mới và khác nhau để đáp ứng với thị trường điều kiện (Han et al, 1998; Hult et al, 2004;. Jaworski và Kohli, 1993). Như một kết quả, các công t y quốc t ế với mức định hướng thị trường cao có nhiều khả năng tìm kiếm sáng kiến cải tiến, bao gồm cả int ernet. Họ có t hể tìm thấy một kênh hữu ích của thông tin internet và truyền thông và sử dụng nó cho việc quốc t ế của họ. Như vậy: H4.Có một m ối quan hệ tích cực giữa định hướng thị trường và nhận thức hữu ích của internet. H5. Có m ột m ối quan hệ tích cực giữa định hướng thị trường và internet sử dụng. Học tập định hướng là một nền văn hóa tổ chức có ảnh hưởng đến xu hướng của một công ty để tạo ra và sử dụng kiến thức (Sinkula et al, 1997). học tập định hướng phản ánh cam kết của công ty để học tập, tâm trí rộng mở, và tầm nhìn chung. Cam kết học tập phản ánh giá trị cơ bản mà công t y nắm giữ đối với học tập, ảnh hưởng đến cho dù đó là có khả năng thúc đẩy một nền văn hóa học tập trong công t y. Cởi mở có liên quan đến khái niệm "không học hỏi" đó đề cập đến quá trình mà qua đó các tổ chức loại bỏ kiến thức. Sự không thiên vị khuyến khích các công t y phải đánh giá lại lâu nay t hói quen, giả định, và niềm tin. Cuối cùng, chia sẻ tầm nhìn hướng tập trung học t ập nuôi dưỡng năng lượng, cam kết và mục đích giữa các thành viên trong tổ chức (Sinkula et al, 1997). Việc học tập theo định hướng công ty tạo ra và khuyến khích một môi trường học tập trong toàn bộ tổ chức của mình. Điều này làm t ăng khả năng t hông qua và thực hiện các ý tưởng mới, quy trình hoặc sản phẩm đó , để sản xuất năng lực sáng t ạo cho công t y 5
  6. (Hurley và Hult, 1998). Công ty tiếp tục thúc đẩy quá trình tổ chức học tập: thu t hập t hông t in, phổ biến thông tin và giải thích chia sẻ (Sinkula, 1994). Do đó, các công ty quốc tế với mức độ định hướng học t ập cao hơn có nhiều khả năng tìm thấy int ernet là hữu ích và dễ sử dụng, và do đó sử dụng nó cho họ quốc tế. Như vậy: H6.Có m ột m ối quan hệ tích cực giữa học định hướng và nhận thức hữu ích của internet. H7. Có m ột m ối quan hệ tích cực giữa học định hướng và nhận thức dễ sử dụng internet. Học t ập định hướng có t hể giúp t húc đẩy t ư duy định hướng t hị trường của một công t y và hành vi. Một thành phần quan t rọng của định hướng học t ập là khả năng t ham gia trong t hích ứng của công t y cũng như học tập generative, trong đó giá trị hiện tại được đặt câu hỏi. Điều này có tác động đối với công ty thu hồi như thế nào, quy trình và sau đó sử dụng thị trường thông minh - đó là, định hướng t hị trường của họ (Slater và Narver, 1995). Một cấp trên môi trường học tập này sẽ thúc đẩy việc sử dụng mọi nguồn lực, bao gồm cả các hành vi kèm theo định hướng thị trường (Baker và Sinkula, 1999). Hơn nữa, các công ty với một định hướng học tập mạnh mẽ được đặt tại các thị trường chuyển t iếp (nơi kinh doanh của họ giá t rị được nhúng vào trong một hệ thống hoạch định tập trung) có xu hướng áp dụng một cách tìm kiếm thị trường, liên quan đến một phương pháp t iếp cận định hướng t hị trường. Việc lớn hơn mức độ định hướng học tập của mình, lớn hơn mức độ "không học hỏi" các công t y sẽ thực hiện. Nghĩa là, họ có t hể rút khỏi cách thường xuyên của họ làm kinh doanh mà đã trở thành nhúng trong cách tiếp cận kinh doanh trước đây của họ. Như vậy: H8. Có m ột m ối quan hệ tích cực giữa định hướng học tập và thị trường định hướng. Ph ươn g pháp Hai giai đoạn của nghiên cứu đã được t hực hiện trong nghiên cứu này: một nghiên cứu thí điểm và một cuộc điều tra chính. Giai đoạn t hí điểm liên quan đến một nhóm tiêu điểm và t hí điểm một nghiên cứu định lượng. Mục đích của nó là để sửa đổi và hoàn thiện các biện pháp. Cuộc khảo sát chính đã được sử dụng để kiểm tra các mô hình đo lường và cấu t rúc: xem P hụ lục 1 cho quá t rình nghiên cứu. Đo l ường Ba vấn đề đầu tiên để xây dựng (sử dụng internet, nhận t hức hữu ích và dễ dàng nhận t hức của việc sử dụng int ernet) và hai cấu trúc bậc hai (học t ập định hướng và định hướng t hị trường) đã được sử dụng trong nghiên cứu này. Sử dụng Int ernet được đo bằng hai mục. Việc đầu t iên là thước đo thời gian dành tìm kiếm trên Internet - có nghĩa là, bao nhiêu giờ mỗi tuần công ty sử dụng int ernet để tìm kiếm thông tin về thị trường nước ngoài, chẳng hạn như bằng cách sử dụng công cụ tìm kiếm, lượt truy cập đến các trang web của các nhà phân phối nước ngoài, các đối thủ cạnh tranh, nhà cung cấp và khách hàng. T hứ hai là về tần số của việc sử dụng e-mail cho kinh doanh quốc t ế mục đích. Điều này được đo chỉ đơn giản bằng cách trả lời yêu cầu có bao nhiêu lần trong một tuần công ty nhận và gửi e-mail liên quan đến hoạt động kinh doanh quốc tế. Mặc dù cuộc khảo sát điện t ử là một công cụ quan t rọng cho nghiên cứu t hị trường trên int ernet (Weible và Wallace, 2001; Wilson và Laskey, 2003), một cuộc thảo luận với các nhà quản lý của một công ty nghiên cứu tại Việt Nam cho thấy nó đã không được sử dụng rộng rãi. Do đó, công cụ đã được bao gồm trong các biện pháp sử dụng int ernet là một phần của mục e-mail. Cũng lưu ý rằng hai chỉ 6
  7. số này được dự kiến sẽ có liên quan chặt chẽ. Bởi vì, khi một công ty cần thông tin, nó sẽ cố gắng để tìm thấy nó bằng cách tìm kiếm trên Internet và / hoặc e-mail đối t ác nước ngoài, khách hàng và các doanh nghiệp liên quan tổ chức từ người mà nó hy vọng sẽ tìm thấy thông tin. Vì vậy, phản xạ chỉ số này được sử dụng. Đo lường của nhận thức hữu ích và dễ dàng nhận thức của việc sử dụng internet đã được dựa t rên quy mô của Nguyên và Barrett (2006), một phiên bản sửa đổi của quy mô Davis (1989). Nhận thức hữu ích của int ernet được đo bằng sáu mục, phản ánh một niềm tin vững chắc trong tính hữu dụng của nó để có được thông tin về giao tiếp với các thị trường nước ngoài. Cảm nhận được một cách dễ dàng của việc sử dụng int ernet được đo bằng bốn hạng mục, bao gồm ba khía cạnh của sự hiểu biết làm t hế nào để sử dụng int ernet, sử dụng nó để tìm kiếm thông tin về thị trường nước ngoài cụ thể và giao tiếp với các t ổ chức nước ngoài t hông qua internet sử dụng:. Định hướng thị trường được đo bằng quy mô Narver và Slater (1990). Định hướng thị trường cũng là một cấu trúc đơn đặt hàng thứ hai bao gồm ba t hành phần: định hướng khách hàng, định hướng đối t hủ cạnh tranh, và phối hợp giữa các chức năng. Định hướng khách hàng được đo bởi t ám mặt hàng, giải quyết vấn đề cấp của công ty cam kết cho khách hàng. Định hướng đối t hủ cạnh t ranh được đo bằng cách yêu cầu trả lời về mức độ hiểu biết về, và phản ứng với, cạnh t ranh. P hối hợp liên chức năng được đo bằng năm mục đánh giá mức độ phối hợp giữa các chức năng t rong công t y. Cuối cùng, định hướng học tập được đo sử dụng quy mô phát triển bởi Sinkula et al. (1997). Học tập định hướng cũng là một cấu trúc bậc hai, bao gồm ba thành phần: cam kết học t ập, chia sẻ tầm nhìn và t inh thần cởi mở. Cam kết học tập được đo bằng bốn mục phản ánh mức độ sẵn sàng cam kết học t ập - đó là, để thúc đẩy và nuôi dưỡng một nền văn hóa học tập trong công ty. Tầm nhìn chung cũng được đo bởi bốn mặt hàng thể hiện sự tập trung cho việc học thúc đẩy năng lượng, cam kết, và mục đích trong mỗi thành viên của công ty. Cuối cùng, cởi mở được đo bằng ba mục phản ánh "Không học hỏi" quá trình của công ty. Ngoại trừ hai mục đo internet sử dụng, được thu nhỏ lại ở mức tỷ lệ, tất cả các mục khác được đo bằng một Likert năm điểm thang điểm từ 1 ¼ rất không đồng ý đến 5 ¼ hoàn t oàn đồng ý. Đo l ường sàng l ọc Một nhóm tập trung được t hực hiện với sáu quản lý những người có t rách nhiệm về quốc t ế, và đã sử dụng Internet quốc tế cho hoạt động kinh doanh.Mặc dù hầu hết các quy mô đã được sử dụng rộng rãi trong quá khứ, bước này là quan t rọng bởi vì sự khác biệt trong các thiết lập nghiên cứu: các công ty quốc tế trong một thị trường chuyển tiếp. Một cuộc khảo sát t hí điểm định lượng t heo để tinh chỉnh các biện pháp. Nó được thực hiện bởi các cuộc phỏng vấn mặt-đối-mặt với 89 doanh nghiệp tại T P Hồ Chí Minh, Việt Nam. Quy mô được đánh giá t hông qua alpha của Cronbach và phân tích nhân tố khám phá (gốc trục bao t hanh toán PROMAX xoay). Đánh giá độ tin cậy trong việc xóa một mục đo định hướng t hị trường, do t ương quan của nó item-tổng mức thấp, 0,30 (Nunnally và Bernstein, 1994). Kết quả cho t hấy định hướng thị trường mục khác đo được t iếp tục bị xóa bởi vì nó có một tải yếu t ố thấp (0,50). Các t ải t rọng cho các hạng mục khác là chấp nhận được (0,50)., Và chúng được sử dụng cho cuộc điều t ra chính để kiểm tra các mô hình. Các m ẫu 7
  8. Việt Nam là một nền kinh tế chuyển đổi dưới điều t ra (T sang, 2005), mà tác giả có kết nối t rước đó. Một mẫu hệ thống của 306 công ty quốc t ế tại T P Hồ Chí Minh, một t rung tâm t hương mại lớn, được chiết xuất từ mục kinh doanh địa phương, có khoảng 5.000 công ty quốc tế trong tất cả các ngành công nghiệp, trong đó đã sử dụng int ernet. Chìa khóa-cung cấp thông tin duy nhất phương pháp tiếp cận, phương pháp phổ biến nhất được sử dụng t rong nghiên cứu t ổ chức (Kumar et al, 1993), đã được sử dụng. T rả lời là giám đốc điều hành cấp cao tại các công ty lấy mẫu, nhưng người phỏng vấn còn được tiếp tục hướng dẫn để thu hút các thông tin cụ thể, chẳng hạn như mức độ sử dụng internet, từ những người trong tổ chức có thể có quyền truy cập vào nó và sẵn sàng t iết lộ nó. Các câu hỏi ban đầu là tiếng Anh, và đã được dịch sang tiếng Việt cho các nhà quản lý không thông thạo tiếng Anh. Về dịch được sử dụng để đảm bảo t ương đương về ý nghĩa. Một phần khảo sát tự quản, trong đó câu hỏi đã được gửi đến người được hỏi mục t iêu và thu phỏng vấn, đã được lựa chọn cho nghiên cứu này. T heo dõi các cuộc gọi điện t hoại nhắc nhở đã được t hực hiện. Để có được một kích thước mẫu của khoảng 300, 400 câu hỏi đã được phân phối cho các công t y t rong mẫu đã chọn. Khoảng 327 bảng câu hỏi hoàn thành đã được t hu t hập: tỷ lệ đáp ứng 82%. T rong số này, 21 câu hỏi là không hợp lệ do người trả lời không phải là thành viên của cấp quản lý cao nhất chịu t rách nhiệm quốc tế hoạt động kinh doanh. 306 câu hỏi còn lại hợp lệ hoàn t hành chính là nguồn gốc các dữ liệu để phân t ích. Các mẫu bao gồm 168 (54,9%) doanh nghiệp nhà nước và 138 (45,1%) các công t y trong các loại quyền sở hữu khác (công t y cổ phần, hạn chế độc quyền và t ư nhân). Doanh nghiệp nhà nước nợ là chiếm ưu t hế hình thức sở hữu (50.%) tại Việt Nam bởi vì khu vực tư nhân đã được đẩy mạnh chỉ trong những năm gần đây. Về kích thước, 76 công ty (24,8%) đã có ít hơn 100 nhân viên, 170 (55,6%) đã có t ừ 100 đến 300 nhân viên, và 60 (19,6%) đã có hơn 300. Cuối cùng, t ất cả các doanh nghiệp sử dụng int ernet e-mail và nhằm mục đích tìm kiếm thông tin, mặc dù ít hơn 1/3 (30,1%) có một t rang web. Ph ân tích dữ liệ u và kế t quả Quy mô được đánh giá bằng phân t ích nhân tố khẳng định (CFA), trước khi cấu t rúc mô hình phương trình được sử dụng để thử nghiệm các mô hình lý t huyết và giả thuyết. các sàng lọc quá t rình cho thấy rằng các dữ liệu t hể hiện độ lệch nhẹ so với bình thường. T uy nhiên, t ất cả các kurt oses đơn biến không đáng kể và tất cả các giá t rị skewness trong phạm vi của (2 1, 1). Vì vậy, tối đa ước tính khả năng được sử dụng (Muthen và Kaplan, 1985). Đo l ường các m ô h ình Các cấu t rúc lệnh đầu tiên trong mô hình được coi là hữu dụng, dễ dàng cảm nhận sử và sử dụng internet. Ngoại t rừ cho sử dụng internet, được đo bằng hai các mặt hàng, các mô hình CFA tính hữu dụng của nhận thức và dễ dàng cảm nhận sử dụng phù hợp với các dữ liệu tốt. Các cấu t rúc bậc hai là định hướng t hị trường và định hướng học tập. Định hướng thị trường bao gồm ba t hành phần: định hướng khách hàng, đối t hủ cạnh t ranh định hướng và phối hợp giữa các chức năng. Học t ập định hướng cũng có ba thành phần: cam kết học tập, chia sẻ tầm nhìn và cởi mở. Kết quả CFA chỉ ra rằng hai bậc hai cấu t rúc là một phù hợp tốt với dữ liệu. Ngoài ra, mối tương quan giữa các thành phần của xây dựng mỗi, cùng với sai số chuẩn của họ, cho rằng họ đã được ít hơn đáng kể so với sự thống nhất. Những phát hiện này hỗ trợ trong xây dựng giá trị phân biệt (Steenkamp và van T rijp, 1991). 8
  9. Các mô hình đo lường cuối cùng cũng đạt được một sự phù hợp t ốt với dữ liệu. Các yếu tố tải t rọng của tất cả các mục là có ý nghĩa và đáng kể (0,63 $, p, 0,001), và tất cả các phương sai t rung bình chiết xuất cao (0,50 $). Ngoài ra, độ tin cậy tổng hợp của tất cả các quy mô này là chấp nhận được (0,67 $). Những phát hiện này cho thấy rằng t ất cả các quy mô đo các cấu t rúc lệnh đầu t iên, và các t hành phần của cấu trúc bậc hai unidimensional (Fornell và Larcker, 1981) và giá t rị hội t ụ trong phương pháp đã đạt được (Steenkamp và van T rijp, 1991). Cuối cùng, các mối t ương quan giữa cấu t rúc, cùng với sai số chuẩn của họ, cho thấy rằng họ đã ít hơn đáng kể so với sự thống nhất. Những phát hiện này một lần nữa khẳng định trong xây dựng giá t rị phân biệt. Phụ lục 2 tóm tắt các kết quả của việc xác nhận đo lường, và P hụ lục 3 trình bày các t ải t rọng mục t iêu chuẩn hóa. Kế t cấu k ế t quả Các kết quả mô hình phương trình cấu trúc chỉ ra rằng các mô hình lý t huyết có một phù hợp để các dữ liệu: x [651] ¼ 730,88 (p ¼ 0,016), CFI ¼ 0,983, T LI ¼ 0,982, và RMSEA ¼ 0,021. Các kết quả này cũng hỗ trợ tất cả tám giả thuyết đã được hỗ trợ. Dự toán unstandardized được trình bày trong Bảng I, và ước tính tiêu chuẩn hóa trong hình 2.Đó là giá trị lưu ý rằng không có giải pháp không thích hợp được tìm thấy trong bất kỳ của CFA hoặc các mô hình cấu t rúc: trường hợp Heywood đã vắng mặt, tất cả các phương sai lỗi là có ý nghĩa, và t ất cả các dư t iêu chuẩn ít hơn j2.58j. Thảo luận Bằng cách áp dụng T AM trong bối cảnh t ổ chức sử dụng internet như là một kênh thông t in và t ruyền thông cho các công ty quốc t ế, nghiên cứu này giúp tăng cường sự hiểu biết của chúng t a về các tiền đề quan t rọng của việc sử dụng int ernet của họ. Cụ thể, nó mở rộng việc sử dụng các khái niệm về nhận thức hữu ích và dễ dàng cảm nhận sử dụng bối cảnh của việc sử dụng t ổ chức của internet. T heo dự đoán của H1, H2 và H3, nhận thức hữu ích và cảm nhận dễ dàng sử dụng internet là yếu t ố tiên đoán của việc sử dụng internet. Các kết quả đưa ra bằng chứng cho việc sử dụng t ổng t hị trường t rong việc giải t hích sử dụng int ernet. Nhận thức hữu ích và dễ dàng cảm nhận sử dụng đã dự đoán t hành công việc chấp nhận và sử dụng các ứng dụng CNT T của các cá nhân (Davis, 1989; Igbaria et al, 1995). Họ cũng có thể áp dụng để dự đoán cách sử dụng của các t ổ chức. Điều này cho thấy rằng tính hữu dụng nhận thức là một yếu tố quan t rọng t rong việc ứng dụng CNT T , không chỉ cho cá nhân, mà còn cho các t ổ chức. Nếu các công ty tin rằng một ứng dụng là không liên quan đến họ, họ sẽ không có khả năng sử dụng 9
  10. nó. Này cũng t hích hợp khi sử dụng internet như là kênh thông tin và truyền thông cho các hoạt động kinh doanh quốc t ế. Các công ty Quốc tế có nhiều khả năng sử dụng int ernet nếu họ tin rằng nó là một nguồn thông tin hữu ích và một kênh giao tiếp hiệu quả với khách hàng và các đối t ác t ại các t hị trường nước ngoài. Cùng với tính hữu dụng nhận thức, nhận thức dễ dàng sử dụng đóng một vai trò trong việc này ngữ cảnh. Nó kích thích các công ty để khám phá những hữu ích của Internet và để sử dụng nó. Cách khác, nếu các doanh nghiệp tin rằng bằng cách sử dụng các công cụ Internet rất phức t ạp, xu hướng khám phá ra t ính hữu dụng của họ và sử dụng chúng sẽ giảm. Những phát hiện này phù hợp với các t ài liệu về IT chấp nhận và sử dụng (Igbaria et al, 1995. Lucas và Spitler, 1999). Cần lưu ý rằng vai t rò của dễ dàng cảm nhận sử dụng trong int ernet sử dụng khiêm t ốn (b ¼ 0,21), so với t ính hữu dụng nhận t hức (b ¼ 0,44). Những phát hiện này cũng phù hợp với các nghiên cứu trước đây của việc t hông qua và sử dụng. Ví dụ, Adams et al. (1992) thấy rằng còn rất nhiều một mối quan hệ giữa t ính hữu dụng nhận t hức và cách sử dụng của ứng dụng CNTT nhưng nhận t hức dễ sử dụng là ít quan t rọng t rong việc quyết định sử dụng. Nguyên và Barrett (2006) thấy rằng nhận thức dễ sử dụng không phải là một yếu tố quyết định về ý định sử dụng int ernet của các công t y xuất khẩu. Hơn nữa, như lập luận của các nhà nghiên cứu t rong việc sử dụng lĩnh vực t ổ chức, ứng dụng CNT T không chỉ phụ thuộc vào niềm tin và thái độ của các tổ chức đối với ứng dụng CNTT mà còn vào các yếu tố tổ chức khác nhau (Leonard-Barton Deschamps, 1988). Việc hỗ trợ cho H4 và H5 (tích cực mối quan hệ giữa định hướng thị trường và cả hai đều sử dụng hữu ích và internet nhận t hức), và H6 và H7 (tích cực mối quan hệ giữa định hướng học tập và cả hai nhận thức hữu ích và dễ dàng cảm nhận của việc sử dụng int ernet) cung cấp bằng chứng cho vai diễn hai yếu tố tổ chức trong việc sử dụng internet. Quá trình thông qua và sử dụng có thể được coi như là một quá t rình đổi mới t ruyền. Cả hai t hị trường và định hướng học tập, tạo điều kiện thuận lợi cho sự đổi mới (Han et al, 1998; Hurley và Hult, 1998). Họ liên 10
  11. quan trực tiếp đến quá trình thu t hập thông t in, chế biến và sử dụng (Hurley và Hult, 1998; Baker và Sinkula, 1999). Cuối cùng, học định hướng định hướng thị trường là nguyên nhân cơ bản, như dự đoán của H8. Phát hiện này làm cho một sự phân biệt rõ ràng giữa định hướng t hị trường và học t ập định hướng t rong bối cảnh quốc t ế các công ty trong một thị trường chuyển t iếp: Việt Nam. Áp dụng phương pháp định hướng t hị trường trong kinh doanh cũng có thể là được coi như là một sự đổi mới t ại các thị trường này. Các doanh nghiệp học tập theo định hướng nhiều hơn có khả năng áp dụng một phương pháp tiếp cận định hướng thị trường. Nói cách khác, các công ty có một độ nghiêng để chấp nhận các giá t rị của "không học hỏi" bằng cách đánh giá lại thói quen lâu nay của họ, và sẵn sàng để áp dụng một cách t iếp cận mới để làm kinh doanh: định hướng t hị trường. Q uản l ý tác động Những phát hiện của nghiên cứu này cung cấp một số gợi ý cho các nhà quản lý cấp cao, như cũng như cho các nhà quản lý quốc t ế của các công ty quốc t ế tại các thị trường chuyển tiếp. Nghiên cứu cho t hấy khả năng thu thập thông tin thị trường nước ngoài của các công ty và xây dựng các mối quan hệ và mạng lưới quốc t ế với các đại lý nước ngoài, các nhà phân phối, khách hàng và các tổ chức khu vực công cộng là một trong những thành công quan trọng các yếu tố thị trường nước ngoài (Doole et al, 2006). Như một phương tiện hỗ trợ nước ngoài nghiên cứu t hị trường và các mối quan hệ kinh doanh quốc t ế (O'T oole, năm 2003; Wilson và Laskey, 2003), internet có thể hỗ trợ các công t y quốc t ế trong việc đạt được như vậy khả năng này. T uy nhiên, các công ty mới nổi và các thị trường chuyển đổi không hoàn toàn hiểu các cơ hội được cung cấp bởi internet và chưa sẵn sàng để sử dụng nó đầy đủ (Kaynak et al, 2005; Nguyễn và Barrett, 2006). Vì vậy, quốc tế các công ty nên được chuẩn bị để sử dụng internet ở một mức độ lớn hơn. Khi làm như vậy, họ cần phải thúc đẩy mức độ nhận thức hữu ích và dễ sử dụng internet bằng cách tham gia vào các chương trình đào tạo có thể nâng cao sự hiểu biết của họ về tính hữu ích và dễ sử dụng int ernet quốc t ế, cũng như t hị trường vai t rò và học t ập định hướng. Các nhà hoạch định chính sách và các tổ chức chịu trách nhiệm cho việc quốc tế các chương t rình hỗ trợ tại các thị trường chuyển tiếp cũng có thể được hưởng lợi từ nghiên cứu này. Như chúng ta đã t hấy được, mặc dù int ernet cung cấp nhiều ứng dụng thương mại cho các công t y t rên khắp t hế giới, nhiều công t y quốc t ế tại các thị trường này đã không nhận thức đầy đủ tính hữu dụng của nó, và có t hể không sẵn sàng để sử dụng int ernet cho các hoạt động kinh doanh quốc tế của họ. Do đó, chương trình hỗ trợ quốc t ế cần thúc đẩy sự hữu ích và dễ sử dụng int ernet bằng cách thiết kế một mô-đun đào tạo giúp các công t y như vậy để sử dụng hiệu quả các công cụ int ernet khác nhau. Ngoài ra, các kết quả của nghiên cứu này cho thấy rằng các công ty định hướng thị trường và học tập theo định hướng có nhiều khả năng để nhận ra t ính hữu dụng và dễ sử dụng internet, và có khả năng sử dụng int ernet ở một mức độ lớn hơn để tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh doanh quốc t ế của họ. Vì lý do đó, chương trình hỗ trợ quốc tế nên khuyến khích các công ty đó để tiếp t ục nuôi dưỡng t hị trường và định hướng học t ập. Hạn ch ế và h ướng nghiê n cứu trong tương lai 11
  12. Nghiên cứu này có ba hạn chế chính. Đầu tiên, điều t ra thực nghiệm đã được t hực hiện t rong một t hị trường quá t rình chuyển đổi. Có thể có sự khác biệt t rong t hị trường chuyển đổi khác, đặc biệt là những người có kinh tế khác nhau, nguồn gốc văn hóa và chính t rị. Ví dụ, thị trường chuyển đổi như T rung Quốc và Việt Nam có thể thể hiện sự khác biệt từ những người ở Đông Âu. Khái quát các kết quả có t hể có giá t rị lớn hơn nếu việc sao chép và nghiên cứu xuyên quốc gia đã được t iến hành t ại các t hị trường đang chuyển đổi khác. T hứ hai, internet là một sự đổi mới tương đối gần đây, và tiềm năng quốc t ế đã không được khai t hác t ại các thị trường đang chuyển đổi nơi cơ sở hạ tầng int ernet vẫn còn kém phát triển. Internet Một số công cụ như điện tử khảo sát và phân phối trên mạng đã không được đưa lên bởi các công t y đó. Do đó, các biện pháp sử dụng int ernet có lẽ là ít có ý nghĩa hơn khả năng có t hể. Những nghiên cứu t rong t ương lai nên tập t rung vào các công cụ khác của Internet cho công t y quốc t ế. T hứ ba, nghiên cứu này chỉ tập trung vào một số các tiền đề quan t rọng của sử dụng int ernet (TAM và hai yếu t ố quan trọng tổ chức thị trường và định hướng học tập). Một cuộc điều t ra của người khác, như đặc điểm quản lý, cũng như các kết quả của việc sử dụng int ernet, là một hướng nghiên cứu t rong t ương lai. Ví dụ, những phát hiện về mối quan hệ giữa việc sử dụng internet và hiệu suất quốc t ế có t hể sẽ là một đóng góp có giá trị cho khu vực. Cuối cùng, mặc dù các phương pháp tiếp cận thông tin chính thường được sử dụng t rong t ổ chức nghiên cứu (Kumar et al, 1993), thu thập dữ liệu từ nhiều người cung cấp thông tin là một thay thế phương pháp được đề nghị cho các nghiên cứu t rong tương lai, đặc biệt nếu nó liên quan đến một số thành viên công ty. References 12
  13. 13
nguon tai.lieu . vn