Xem mẫu
- Bài 5: Mở đầu sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ
và quá độ lên Chủ nghĩa Xã hội ở miền Bắc
(1954-1960)
Phong trào "Đồng khởi" ở nông thôn thúc đẩy mạnh mẽ phong trào đấu
tranh chính trị ở đô thị. Tháng 1-1960, 8.000 công nhân đồn điền cao su
Biên Hoà đình công. Ngày 1-5-1960, 1.000 công nhân Sài Gòn míttinh
nêu khẩu hiệu đả đảo đế quốc Mỹ, thành lập chính quyền dân tộc, dân
chủ. Ngày 20-7 hàng vạn quần chúng ở các đô thị xuống đường biểu tình
đòi "đế quốc Mỹ cút khỏi miền Nam Việt Nam", đòi quyền dân sinh,
dân chủ. Tháng 8-1960, 500 thanh niên ở trại huấn luyện thanh niên
cộng hoà thuộc huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam bỏ trại trốn về nhà.
Ngày 20-9-1960, hơn 20.000 đồng bào Khơme, trong đó có 2.000 sư sãi
tỉnh Trà Vinh, kéo vào thị xã đấu tranh; 45.000 đồng bào nông thôn tỉnh
Mỹ Tho kéo vào thị xã đòi chấm dứt việc bắn pháo vào các thôn xóm.
Ngày 4-10-1960, 10.000 đồng bào huyện Cao Lãnh kéo vào thị xã Sa
Đéc chống khủng bố, bắt phu, bắt lính. Ngày 15-10-1960, hơn 60.000
đồng bào tỉnh Bến Tre kéo vào thị xã đấu tranh đòi huỷ bỏ luật 10/59.
Trong năm 1960 ở miền Nam có 10 triệu lượt người tham gia đấu tranh
chính trị.
Thắng lợi của Đồng khởi đã làm cho ngụy quyền Sài Gòn và chính
quyền Oasinhtơn lên cơn sốt. Trong thông điệp đầu năm 1960, Tổng
- thống Mỹ Aixenhao hô hào tăng cường quân đội Việt Nam cộng hoà để
cầm chân đối phương, chờ chi viện của khối SEATO. (SEATO- South
East Asia Treaty Organization: Tổ chức hiệp ước Đông Nam Á là khối
quân sự do Mỹ cầm đầu nhằm chống lại phong trào giải phóng dân tộc
và tiến bộ xã hội đang phát triển mạnh ở Đông Nam Á sau thất bại của
Pháp ở Việt Nam và Đông Dương - TG).
Tháng 8-1960, CIA báo cáo về Oasinhtơn rất có thể Mỹ phải tính đến
những phương án hành động khác và tìm người lãnh đạo khác. Thực
hiện ý đồ đó, Mỹ đạo diễn các cuộc đảo chính chống Diệm. Tháng 11-
1960 cuộc đảo chính của Nguyễn Chánh Thi thất bại, nhưng cuộc khủng
hoảng chính trị trong nội bộ ngụy quyền từ đó kéo dài triền miên, dẫn
đến hàng loạt cuộc đảo chính, ly khai và "thay ngựa giữa dòng" của Mỹ.
Phong trào "Đồng khởi" trên thực tế đã chuyển cách mạng miền Nam từ
thế giữ gìn lực lượng sang thế tiến công, giáng một đòn bất ngờ vào
chiến lược Aixenhao, đẩy chính quyền Mỹ vào tình thế bế tắc, mở ra
bước ngoặt của cách mạng miền Nam, góp phần bảo vệ và củng cố miền
Bắc.
Ngày 20-12-1960, tại xã Tân Lập, Châu Thành (nay là Tân Biên - Tây
Ninh), Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam ra đời.
- 3. Hội nghị 16 và phong trào cải tạo xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc
Ngày 1-1-1958, trong Thư chúc mừng năm mới, Chủ tịch Hồ Chí Minh
nói rõ miền Bắc tiến dần lên chủ nghĩa xã hội.
Sáu tháng cuối năm 1958, trên miền Bắc hình thành một phong trào mới
với xu thế chung tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Trung tuần tháng 11-1958, Hội nghị lần thứ 14 Ban Chấp hành Trung
ương Đảng (khoá II) họp bàn chủ trương phát triển kinh tế - văn hoá
trong kế hoạch 3 năm 1958 - 1960 và cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với
kinh tế cá thể và kinh tế tư bản tư doanh.
Trong bài nói chuyện tại Hội nghị cán bộ cao cấp nghiên cứu Nghị quyết
14, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ khi đẩy mạnh phong trào tổ đổi công và
hợp tác xã cần chú ý:
"- Giữ đúng nguyên tắc tự nguyện và cùng có lợi.
- Phải có cán bộ để giúp các hợp tác xã về mặt tổ chức, quản lý...
- Phải coi trọng chất lượng. Làm đến đâu phải chắc chắn đến đấy, rồi
phát triển dần ra".
Trong xu thế tiến lên chủ nghĩa xã hội của cáctầng lớp nhân dân miền
- Bắc, Hội nghị lần thứ 16 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá II)
tháng 4-1959 thảo luận và thông qua hai nghị quyết quan trọng: Nghị
quyết về vấn đề hợp tác hoá nông nghiệp và Nghị quyết về vấn đề cải
tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh.
Hội nghị chỉ rõ nhiệm vụ của Đảng ở nông thôn lúc này là: trên đà
chuyển biến mới của tình hình, chuẩn bị về mọi mặt đường lối, chính
sách, tư tưởng, tổ chức, cán bộ và kế hoạch để phát triển tổ đổi công và
hợp tác xã sản xuất nông nghiệp một cách tích cực và vững chắc, chuẩn
bị tiến tới cao trào cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nông thôn. Ba nguyên
tắc cần được quán triệt trong suốt quá trình xây dựng hợp tác xã là: tự
nguyện, cùng có lợi và quản lý dân chủ.
Về cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với công thương nghiệp tư bản tư
doanh,Hội nghị lần thứ 16 Ban Chấp hành Trung ương Đảng nhận định:
miền Bắc tiến hành cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh trong
lúc đã có Nhà nước dân chủ nhân dân, do giai cấp công nhân lãnh đạo,
dựa trên nền tảng liên minh công nông vững chắc, có lực lượng kinh tế
quốc doanh ngày càng lớn mạnh. Giai cấp tư sản Việt Nam vốn nhỏ yếu,
giai cấp tư sản ở miền Bắc lại càng nhỏ yếu, hầu hết thuộc loại vừa và
nhỏ. Họ vốn là bạn đồng minh của giai cấp công nhân trong cách mạng
dân tộc dân chủ, có khả năng tiếp thu chủ nghĩa xã hội. Xuất phát từ
thực tế đó, Đảng chủ trương tiến hành cải tạo hoà bình đối với công
- thương nghiệp tư bản tư doanh.
Hội nghị chủ trương đưa xí nghiệp tư bản tư doanh từ hình thức thấp và
vừa lên hình thức cao của chủ nghĩa tư bản nhà nước, chủ yếu là hình
thức công tư hợp doanh, chuyển chế độ chiếm hữu tư bản chủ nghĩa
thành chế độ sở hữu của toàn dân. Điểm mấu chốt trong chính sách cải
tạo hoà bình công thương nghiệp tư bản tư doanh là chuộc lại tư liệu sản
xuất, sắp xếp công việc cho người tư sản trong xí nghiệp, dần dần cải tạo
họ thành người lao động.
Cuối tháng 12-1959, kỳ họp thứ 11 Quốc hội khoá I đã nhất trí thông
qua Dự thảo Hiến pháp sửa đổi. Ngày 1-1-1960, Chủ tịch Hồ Chí Minh
công bố Hiến pháp mới của nước ta. Hiến pháp mới nêu rõ: Nước Việt
Nam dân chủ cộng hoà tiến dần từ chế độ dân chủ nhân dân lên chủ
nghĩa xã hội bằng cách phát triển và cải tạo nền kinh tế quốc dân theo
chủ nghĩa xã hội, biến nền kinh tế lạc hậu thành một nền kinh tế xã hội
chủ nghĩa với công nghiệp và nông nghiệp hiện đại, khoa học và kỹ
thuật tiên tiến. Hiến pháp mới xác định chế độ xã hội chủ nghĩa đang
được xây dựng ở miền Bắc là con đường mang lại ấm no và hạnh phúc
của nhân dân ta.
Thực hiện chỉ thị của Ban Bí thư Trung ương Đảng (tháng 11-1959) về
đợt phát triển Đảng mang tên 6-1(ngày thành lập Đảng trước đó được
- thống nhất là ngày 6-1-1930, nhưng căn cứ theo các văn kiện đã được
điều chỉnh thành ngày 3-2), nhân dịp kỷ niệm lần thứ 30 ngày thành lập
Đảng Cộng sản Việt Nam, đến hết tháng 12-1960 Đảng đã kết nạp được
62.254 đảng viên mới.
Thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 16 Ban Chấp hành Trung ương
(khoá II), cuối năm 1960 đã có 84,9% số hộ nông dân lao động tham gia
hợp tác xã bậc thấp, chiếm 68,1% tổng diện tích canh tác và hợp tác xã
bậc cao chiếm 12% tổng số hợp tác xã.
Hợp tác hoá nông nghiệp đã đẩy mạnh phong trào thuỷ lợi hoá và thúc
đẩy việc cải tiến kỹ thuật nông nghiệp như phong trào cấy lúa xuân,
phong trào chọn giống mới, phong trào làm phân xanh...
Khuyết điểm phổ biến của phong trào hợp tác hóa 1959-1960 là nóng
vội, vi phạm nguyên tắc tự nguyện và cùng có lợi, không nắm vững
phương châm tốt, vững, gọn, chưa tìm ra hình thức quản lý hợp tác xã
thích hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Tháng 9-1960, 100% số doanh nghiệp tư bản tư nhân thuộc diện cải tạo
đã được tổ chức thành xí nghiệp công tư hợp doanh, xí nghiệp hợp tác
hoặc hợp tác xã thủ công nghiệp.
Tháng 10-1960, gần 90% tổng số thợ thủ công trong diện cải tạo đã
- tham gia hợp tác xã thủ công nghiệp bậc vừa và thấp.
Cuối năm 1960, đã có 60% tổng số người buôn bán nhỏ tham gia hợp
tác xã hoặc tổ mua bán.
Kết quả của cuộc vận động cải tạo theo chủ nghĩa xã hội là quan hệ sản
xuất xã hội chủ nghĩa đã được xác lập ở miền Bắc. Chế độ sở hữu toàn
dân và sở hữu tập thể được xây dựng trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
Tuy nhiên, trong việc cải tạo xã hội chủ nghĩa ta đã phạm sai lầm nóng
vội, muốn xoá bỏ ngay nền kinh tế nhiều thành phần.
Cùng với kết quả cải tạo xã hội chủ nghĩa, thành phần kinh tế quốc
doanh ngày càng phát triển và đã có vai trò lãnh đạo nền kinh tế quốc
dân.
Sản xuất nông nghiệp trong 3 năm (1958-1960), mặc dầu năm 1960 có
thiên tai lớn, vẫn tăng trung bình mỗi năm 5,6%. Thu nhập quốc dân tính
theo đầu người từ năm 1955 đến năm 1960 tăng gấp đôi, sức mua của xã
hội tăng 70%. Về văn hoá, năm 1960 cứ 100 người dân có 18 người đi
học (năm 1939 chỉ có 3 người). Số giường bệnh tăng trên 2 lần.
Thắng lợi của kế hoạch 3 năm 1958 - 1960 về cải tạo xã hội chủ nghĩa
đã tạo nên những chuyển biến cách mạng trong nền kinh tế và xã hội ở
- miền Bắc nước ta. Miền Bắc được củng cố, trở thành hậu phương ổn
định, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp cách mạng miền Nam.
nguon tai.lieu . vn