Xem mẫu
- Áp-xe não ở trẻ em
Vốn là bệnh có thể gây tử vong và dẫn đến nhiều biến chứng nguy hiểm, áp-xe não
thật sự là kẻ thù giấu mặt khi những biểu hiện của nó không đến từ não mà bắt
nguồn từ một chứng bệnh khác.
Bé P.T.T bắt đầu lười ăn, khó ngủ, hay khóc và sốt nhẹ từ khoảng hai tuần trước khi nhập
viện. Sau vài ngày uống thuốc hạ sốt thấy tình trạng của cháu không bớt, người nhà đưa
bé đi khám bệnh nhưng để không tái khám sau hai ngày theo đúng hẹn để bác sĩ theo dõi
mà tiếp tục mua thuốc theo toa cũ.
Bé bắt đầu sốt nhiều hơn, quấy khóc, tay chân yếu dần. Thấy tình trạng xấu đi, người nhà
liền đưa bé đến Bệnh viện Nhi Đồng 2. TP. SG. Các bác sĩ chuyển bệnh nhi sang khoa
Ngoại tổng hợp để điều trị!
Bác sĩ Đặng Xuân Vinh, Trưởng nhóm Ngoại thần kinh, khoa Ngoại tổng hợp, cho biết:
“Sau khi xem phim chụp MRI (hình ảnh trở kháng từ), các bác sĩ phát hiện có ổ áp -xe
lớn chèn ép não. Bệnh nhi còn quá nhỏ, khối áp-xe lại lớn nên việc phẫu thuật cho bé
phải tiến hành nhanh và trong điều kiện tốt nhất có thể. Trước khi mổ, bé được cho sử
dụng thuốc chống phù não, kháng viêm liều cao, để đảm bảo khối áp-xe không có thêm
biến chứng hoặc gây tụt não, dẫn đến tử vong”.
- Người lớn cần tinh ý để sớm nhận biết dấu hiệu áp xe não
Đối với trẻ em, biểu hiện bất thường đầu tiên là bắt đầu bỏ ăn, quấy khóc và đau đầu như
trường hợp của bé T. Ban đầu, người nhà không mấy quan tâm khi bé sốt nhẹ và bỏ ăn vì
cho rằng cháu đang mọc răng. Nhưng sau đó bé vẫn sốt cao hơn, uống thuốc không giảm.
Bé bắt đầu đờ đẫn, nôn ói, đi lại không được, tay chân bên phải phản xạ rất yếu khi có tác
động.
Theo bác sĩ Đặng Xuân Vinh, những biểu hiện trên là do thần kinh của bé đã bị ảnh
hưởng. Phim chụp MRL cho thấy bé đã ở vào bệnh cảnh cần mổ cấp cứu. Rất may là ca
phẫu thuật thành công và bệnh nhi bình phục nhanh. Nhiều phụ huynh chưa nhận thức
đúng mức độ nguy hiểm của những cơn sốt không rõ nguyên nhân. Họ thường chỉ đưa
con em mình đến bệnh viện khi tình trạng đã bắt đầu trở nặng. Trẻ rơi vào trạng thái lờ
đờ, kém phản ứng, thậm chí liệt một bên cơ thể.
Áp- xe não vốn là hiện tượng tích tụ mủ trong não nên sẽ gây tăng áp lực nội sọ, mạch
chậm, huyết áp tăng, nhức đầu, nôn ói...Soi đáy mắt thấy phù gai thị.
Nguyên nhân gây biến chứng áp-xe não
Đa phần nguyên nhân gây áp-xe vùng não ở trẻ em là do trẻ bị viêm nhiễm đường hô hấp
trên tai-mũi-họng như viêm xoang, viêm tai giữa.
Các cơ quan này ở rất gần não, thậm chí có chỗ chỉ cách màng não khoảng 0,5mm, nên
khi bị viêm nhiễm, các tổ chức não rất có thể bị tổn thương, gây biến chứng nguy hiểm,
xuất hiện khối áp-xe. Nếu bệnh nhi có bệnh lý tim mạch bẩm sinh, nguyên nhân có thể
nằm ở đây. Bệnh tim dễ dẫn đến tình trạng huyết khối tĩnh mạch nội sọ, có khả năng gây
áp-xe. Ngoài ra còn có thể kể thêm những tổn thương vùng đầu do tai nạn gây chấn
thương sọ não, viêm màng não mủ.
Những biến chứng không mong đợi
Tình trạng áp-xe não có thể để lại những di chứng nặng nề về sau lên hệ thần kinh của
trẻ. Trường hợp của bé T, tuy cơ thể đã có phản ứng, bé tỉnh táo nhưng còn chờ thời gian
để hồi phục, hệ thần kinh vận động linh hoạt như trước.
Những khối áp-xe phát triển nhanh hay chậm tùy trường hợp nhưng đều là những mối
nguy hiểm lớn, có thể gây nhiễm độc, nhiễm trùng hệ thần kinh trung ương. Đó là do ổ
- áp-xe vỡ vào não thất, hôn mê, tụt não, ngưng thở và tử vong.
Việc phát hiện một khối áp-xe khi trẻ đã đến bệnh viện không khó. Vì vậy, ở các nước
phát triển, rất hiếm trường hợp tử vong vì biến chứng này. Nhưng tại Việt Nam, việc đưa
bệnh nhi đi thăm khám muộn, xem nhẹ những biểu hiện ban đầu của bệnh và không tuân
thủ lịch hẹn tái khám đã để lại nhiều hậu quả đáng tiếc.
Hậu phẫu lâu dài
Theo bác sĩ Đặng Xuân Vinh: “Cách điều trị duy nhất hiệu quả đối với trường hợp của bé
T, là phải mổ dẫn lưu mủ, tiến hành bơm, rửa sạch ổ áp-xe cho bệnh nhi. Số lượng mủ
lấy ra khoảng 150ml. Nếu phẫu thuật chậm, nguy cơ tử vong rất cao. Thông thường, với
những ổ áp-xe nhỏ hơn l.7cm, bệnh nhi có thể được điều trị nội khoa bằng thuốc. Khi
khối áp-xe lớn hơn 2.5cm, các bác sĩ sẽ cân nhắc để phẫu thuật loại bỏ.
Nếu ổ áp-xe nông và ở vị trí thích hợp, có thể không cần mổ mà dùng kim vô trùng chọc
hút mủ ra khỏi não. Trường hợp này, thời gian điều trị bằng thuốc sau mổ sẽ lâu hơn.
Sau khi phẫu thuật, bệnh nhi phải sử dụng thuốc kháng sinh liều cao, phổ rộng và dùng
tiêm tĩnh mạch kéo dài khoảng 4-8 tuần để chống nhiễm khuẩn. Kèm theo đó là các loại
thuốc chống phù não, nhằm điều trị tình trạng tăng áp lực nội sọ.
Do dùng kháng sinh liều cao trong thời gian dài nên các bác sĩ phải tầm soát, kiểm tra để
phòng ngừa suy giảm chức năng gan, thận, tủy cho bé T. Trước khi phẫu thuật T, đã gần
như hôn mê, không phản ứng nhưng hiện tại, tình trạng của bệnh nhi đã ổn định. Bé bắt
đầu ăn được tay chân có thể cử động.
nguon tai.lieu . vn