Xem mẫu

Ảnh hưởng của văn hóa . . .

ẢNH HƯỞNG CỦA VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG ĐẾN
HOẠT ĐỘNG GIAO TIẾP HÀNH CHÍNH VĂN PHÒNG
Đặng Thị Thu Phương*

TÓM TẮT

Hoạt động giao tiếp là hoạt động mang tính xã hội. Tùy theo tính chất mối quan hệ các chủ
thể tham gia giao tiếp mà có cách ứng xử khác nhau. Trong hoạt động giao tiếp hành chính, người
cán bộ, công chức vừa phải tuân thủ những nguyên tắc của giao tiếp nói chung, vừa phải chú ý tới
những yêu cầu riêng của giao tiếp hành chính. Giao tiếp hành chính văn phòng trong thực tế đã
chịu ảnh hưởng rất lớn từ nền văn hóa truyền thống. Trong những năm gần đây, vấn đề giao tiếp
trong lĩnh vực hành chính văn phòng đã thu hút được nhiều sự quan tâm chú ý của các nhà nghiên
cứu. Bài viết này đề cập đến sự ảnh hưởng của văn hóa truyền thống đến giao tiếp hành chính văn
phòng trên hai phương diện là cách xưng hô và tâm lý, thái độ ứng xử.
Keywords: giao tiếp hành chính; văn hóa truyền thống

EFFECTS OF CULTURAL TRADITIONS ACTIVITIES
OF THE OFFICE OF COMMUNICATIONS
ABSTRACT
Communication activities as a social activity. Depending on the nature of the relationship of
the actors to communicate that different behavior. In the communication of administrative activity,
the officers and employees must comply with both the principles of communication in general, has
to pay attention to the specific requirements of the administrative interface. Office administrative
communication in practice was influenced greatly from traditional cultures. In recent years, the
problem of communication in the office administration field has attracted the attention of researchers.
This article refers to the influence of traditional culture to communicate the administrative offices
on two fronts is the vocative and psychology, behavior.
Keywords: administrative communication; Traditional culture

1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ GIAO TIẾP
HÀNH CHÍNH VĂN PHÒNG VÀ VĂN
HÓA TRUYỀN THỐNG
“Văn phòng là bộ máy điều hành tổng hợp
của một cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, là
nơi tiếp thu, thu nhận và xử lý thông tin nhằm
phục vụ cho lãnh đạo, quản lý; là nơi đảm bảo
cơ sở vật chất cho hoạt động của cơ quan và
tổ chức”1. Có thể nói văn phòng có vai trò rất
quan trọng trong quá trình hoạt động của mỗi
cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp. Cùng với quá

trình hoạt động của mình, văn phòng luôn giữ
vai trò là chiếc cầu nối truyền tải thông tin
đến với các cá nhân, đơn vị, tổ chức trong và
ngoài cơ quan. Đồng thời, đây cũng là nơi tạo
nên bộ mặt, hình ảnh của người lãnh đạo, của
cơ quan, tổ chức. Lao động trong văn phòng
thể hiện kết hợp giữa lao động cá nhân và lao
động tập thể. Vì vậy, vấn đề giao tiếp hành
chính văn phòng góp phần không nhỏ để tạo
nên nề nếp, phong cách làm việc của mỗi cán
bộ, công chức nhà nước.

ThS. Gv. Học viện Hành chính Quốc gia (cơ sở TP. Hồ Chí Minh)
1 Đào Xuân Chúc, “Văn phòng và quản trị văn phòng - Lý luận và thực tiễn”, Kỷ yếu Hội thảo khoa học do Trường Đại học Khoa học xã
hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội tổ chức ngày 17/12/2004, trang 50

*

123

Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật

Trong công tác quản lý hành chính, hoạt
động giao tiếp thường xuyên diễn ra: giao tiếp
giữa cấp trên và cấp dưới, giữa các nhóm làm
việc, giữa các đồng nghiệp với nhau... Hiệu
quả của hoạt động giao tiếp sẽ ảnh hưởng
không nhỏ tới hiệu quả hoạt động của từng
cá nhân, nhóm, người lãnh đạo và hoạt động
chung của tổ chức.
1.1. Giao tiếp và giao tiếp hành chính
văn phòng
Cùng với những yêu cầu cần phải đổi mới
một cách toàn diện văn phòng thì mô hình văn
phòng mở đã xuất hiện, phá vỡ thế độc tôn của
văn phòng cổ điển. Có thể nói mục tiêu của
đổi mới và hiện đại văn phòng cũng nhằm thực
hiện tốt chức năng nhiệm vụ của văn phòng,
mà trong đó công tác đối nội và đối ngoại cũng
là một trong những nhiệm vụ giữ vai trò quan
trọng và có liên quan một cách trực tiếp đến
hoạt động giao tiếp. Từ đây các nhà nghiên cứu
đã tiếp cận lĩnh vực quản trị văn phòng ở nhiều
góc độ và giao tiếp hành chính văn phòng là
một trong những nội dung được đề cập đến.
Giao tiếp là một hoạt động diễn ra thường
xuyên và không thể thiếu trong đời sống xã
hội. Đồng thời, cũng có nhiều cách tiếp cận
và định nghĩa về giao tiếp. Thông qua đó,
các định nghĩa đã khái quát lên những dấu
hiệu cơ bản như sau: Giao tiếp là một hiện
tượng đặc thù của con người, nghĩa là chỉ
riêng con người mới có sự giao tiếp khi họ
biết sử dụng phương tiện ngôn ngữ (nói, viết,
hình ảnh nghệ thuật...) và được thực hiện chỉ
trong xã hội. Giao tiếp được thể hiện ở sự trao
đổi thông tin, sự rung động và ảnh hưởng lẫn
nhau; Giao tiếp dựa trên cơ sở hiểu biết lẫn
nhau giữa người với người1.
Trên cơ sở đó chúng ta có thể nói, giao tiếp
hành chính văn phòng là những hoạt động trao
đổi thông tin giữa các cán bộ, công chức với
nhau trong quá trình giải quyết các công việc
văn phòng của mỗi cơ quan, tổ chức. Theo
Giáo sư Mai Hữu Khuê thì: “Giao tiếp hành
chính văn phòng là những hoạt động giao tiếp
chính thức nhằm giải quyết các vấn đề, các mối
quan hệ có liên quan đến việc thực hiện chức
năng nhiệm vụ và quyền hạn của cơ quan”2.

Như vậy, giao tiếp hành chính văn phòng
là những hoạt động giao tiếp diễn ra trong quá
trình giải quyết công việc của cán bộ, công
chức nhằm thực hiện chức năng nhiệm vụ của
cơ quan, tổ chức. Đồng hành với việc nhằm
thực hiện chức năng nhiệm vụ của văn phòng
thì không thể không sử dụng đến hoạt động
giao tiếp. Đây là một trong những phương tiện
giúp cho đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức
thực hiện công việc hiệu quả hơn.Giao tiếp nói
chung và giao tiếp hành chính văn phòng nói
riêng là những hoạt động diễn ra rất đa dạng và
phong phú.Vì vậy mà các hình thức giao tiếp,
giao tiếp hành chính văn phòng cũng được nhìn
nhận và phân chia ở nhiều cách khác nhau.
- Xét theo góc độ tính chất tiếp xúc thì
hoạt động giao tiếp có thể chia thành hai loại:
Giao tiếp trực tiếp, là giao tiếp không qua
các khâu trung gian, giao tiếp “mặt đối mặt”;
Giao tiếp gián tiếp, là giao tiếp thông qua các
phương tiện giao tiếp như: thư từ, sách báo,
văn bản, dữ liệu điện tử...
- Xét theo tính chất của giao tiếp, gồm có:
Giao tiếp chính thức, là những hoạt động giao
tiếp được tổ chức và tiến hành theo quy định
của pháp luật, theo một quy định đã được thể
hiện hóa như: mít tinh, hội họp, tiếp dân, hội
thảo... Giao tiếp không chính thức, là những
giao tiếp có tính cá nhân, tuy không bị ràng
buộc bởi những quy định có tính chất pháp
lý, nghi thức nhưng lại chịu sự tác động của
những quy tắc và tập quán xã giao.
- Dựa vào tâm thế thì hoạt động giao
tiếp có thể chia làm ba loại: giao tiếp ở thế
vững mạnh; giao tiếp ở thế yếu; giao tiếp ở
thế cân bằng.
Từ những cách phân loại như trên chúng
ta thấy ở trong văn phòng, các cán bộ, công
chức, viên chức tham gia hầu hết vào các
hình thức giao tiếp cơ bản như: Giao tiếp
(trao đổi và xử lý thông tin) qua điện thoại;
Giao tiếp trong các cuộc họp, hội thảo, hội
nghị; Giao tiếp qua việc biên tập và xử lý
thông tin bằng văn bản, thư từ giao dịch;
Giao tiếp qua việc tiếp khách của thủ trưởng
và khách đến làm việc, giao dịch với cơ quan.
Các hình thức giao tiếp này đang chịu sự tác
động của rất nhiều yếu tố, trong đó có sự tác
động đậm nét từ ảnh hưởng của văn hóa giao
tiếp truyền thống.

1 Lê Thị Bừng, Phương tiện giao tiếp trong hoạt động quản lý,
NXB Chính trị Quốc gia,2014,Trang 10
2 Mai Hữu Khuê, Tâm lý học trong quản lý Nhà nước, Học viện
Hành chính Quốc gia, 1996, trang 94,95

124

Ảnh hưởng của văn hóa . . .

1.2. Văn hóa và văn hóa truyền thống
Để làm rõ sự ảnh hưởng, tác động của
văn hóa truyền thống đến hoạt động giao
tiếp hành chính văn phòng, cần thống nhất
một khái niệm văn hóa làm mạch dẫn, định
vị nội hàm và ngoại diên của đối tượng cần
nghiên cứu. Ngày nay, văn hóa trở thành đối
tượng nghiên cứu của các nhà khoa học xã
hội, do đó đã có trên 300 định nghĩa khác
nhau về văn hóa. Căn cứ vào mục đích tiếp
cận và nghiên cứu của bài viết, định nghĩa
của tác giả Trần Ngọc Thêm là hướng ưu tiên
để tiếp cận. Trong cuốn “Cơ sở văn hóa Việt
Nam” ông đã đưa ra định nghĩa về văn hóa
như sau:“Văn hóa là một hệ thống hữu cơ
các giá trị vật chất và tinh thần do con người
sáng tạo và tích lũy qua quá trình hoạt động
thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người
với môi trường tự nhiên và xã hội”1. Văn hóa
được con người tạo ra và chỉ có được khi con
người trải qua thực tế lao động, là sự tích tụ
bền bỉ các hiện tượng, sự vật riêng lẻ của
từng dân tộc, để khái quát thành những đặc
trưng chung của một cộng đồng cư dân trên
một lãnh thổ nhất định. Chính vì vậy mà mỗi
dân tộc dù ở trình độ văn minh cao hay thấp
đều có những văn hóa truyền thống đặc trưng
riêng của mình. Hệ thống giá trị đó chính là
sự kết tinh tất cả những gì tốt đẹp nhất được
chắt lọc qua nhiều thời đại lịch sử để tạo nên
bản sắc riêng của mỗi dân tộc. Giá trị văn
hóa truyền thống đó được truyền lại cho thế
hệ sau và trở thành một động lực nội sinh để
phát triển đất nước.
Vậy, văn hóa truyền thống là gì? Theo
giáo sư Trần Ngọc Thêm: “Truyền thống
văn hóa là những giá trị tương đối ổn định
(những kinh nghiệm tập thể) thể hiện dưới
những khuôn mẫu xã hội được tích lũy và tái
tạo trong cộng đồng người qua không gian và
được cố định hóa dưới dạng những phong tục
tập quán, nghi lễ, luật pháp, dư luận…”2.
Ngày nay, xã hội loài người đã đạt được
những bước tiến bộ vượt bậc trong nhiều lĩnh
vực, đặc biệt là kinh tế, thì con người ngày
càng tỏ rõ xu hướng trở về, giữ gìn những
giá trị văn hóa truyền thống. Con người sẽ

không quay đầu lại với văn hóa truyền thống
một khi còn mang nặng trong mình tính nhân
văn, bởi vì bản thân mỗi con người đều có
chứa đựng trong đó đặc tính nhân văn sâu sắc.
Một biểu hiện hùng hồn cho sức sống của văn
hóa là hiện nay ở nhiều thuật ngữ đa ngành
cụm từ “văn hóa” đã có mặt thường xuyên với
tư cách như một thước đo giá trị, chẳng hạn
trong thương mại có cụm từ “văn hóa trong
kinh doanh”, hay “văn hóa ẩm thực”, “văn
hóa ứng xử trong sinh hoạt đời thường” hoặc
“văn hóa giao tiếp”, “văn hóa công sở” và gần
đây người ta còn đưa ra cụm từ “bản sắc văn
hóa của tổ chức Nhà nước”. Như vậy, văn hóa
đã có mặt và tác động đến mọi góc cạnh của
đời sống xã hội với mọi sắc thái, mọi cường
độ khác nhau của nó. TS.Huỳnh Văn Thới,
trong cuốn sách Văn hóa công vụ ở Việt Nam
đã viết: “…nền công vụ Việt Nam đậm nét
truyền thống văn hóa phương Đông”3.
Trong bối cảnh chung đó, giao tiếp hành
chính văn phòng không nằm ngoài sự tác động
của văn hóa truyền thống. Sự tác động này đã
đem lại cho giao tiếp hành chính văn phòng cả
mặt tích cực và tiêu cực. Nắm bắt được điều
đó sẽ giúp cho chúng ta có cách nhìn nhận và
cách ứng xử cho phù hợp trong quá trình giải
quyết công việc ở văn phòng.
2. GIAO TIẾP HÀNH CHÍNH VĂN
PHÒNG DƯỚI SỰ TÁC ĐỘNG CỦA
VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG
Hành chính văn phòng là các hoạt động tổ
chức và điều hành các tổ chức, các nhóm thực
hiện các công việc văn phòng, trong đó hoạt
động chủ yếu là soạn thảo, quản lý hồ sơ, giấy
tờ… để đảm bảo các yêu cầu thông tin phục
vụ lãnh đạo, quản lý. Giao tiếp hành chính
văn phòng là nhằm mục đích hướng tới giải
quyết các công việc liên quan tới chức năng
nhiệm vụ của văn phòng, của cơ quan. Vì vậy,
có thể nói giao tiếp hành chính văn phòng
vừa mang tính quy phạm vừa mang tín nghệ
thuật, lại vừa mang tính kỹ thuật và thực tiễn
cao. Cho nên văn hóa truyền thống trong quá
trình tác động vào giao tiếp hành chính văn
phòng cũng có những ảnh hưởng nhất định.
Tuy nhiên, trong quá trình tác động thì văn
hóa truyền thống không hề đơn độc mà còn có

1 Trần Ngọc Thêm, Cơ sở văn hóa Việt Nam, 1999, trang 10
2 Trần Ngọc Thêm, Tìm hiểu bản sắc văn hóa
Việt Nam,1998, trang 26

3 Huỳnh Văn Thới, Văn hóa công vụ ở Việt Nam, Nhà xuất bản
Lý luận chính trị,2016, trang 143

125

Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật

sự tham gia của các yếu tố như: trình độ học
vấn, vốn ngôn từ, đặc điểm môi trường địa
lý... của các đối tượng giao tiếp. Nhưng văn
hóa có một vai trò mà các yếu tố khác không
thể thay thế được ở chỗ văn hóa là một điều
kiện tiên quyết để nhận diện một dân tộc, một
quốc gia. Sự tác động của các yếu tố văn hóa
truyền thống vào giao tiếp hành chính chủ yếu
thể hiện ở các góc độ sau:
Thứ nhất, văn hóa truyền thống tác động
đến giao tiếp hành chính văn phòngthể hiện
qua cách xưng hô
Xưng hô là cách gọi và xưng mình. Trong
văn hóa truyền thống của người Việt Nam
xưng hô bao giờ cũng thể hiện trật tự thứ bậc
rõ ràng. Thứ tự này dựa trên cơ sở độ tuổi,
giới tính hoặc là quan hệ huyết thống... Chính
vì vậy, trong giao tiếp ứng xử, người Việt rất
coi trọng trật tự trên dưới. Cách ứng xử dựa
trên quan niệm đạo đức và niềm tin vào phúc
đức. Trật tự trên dưới thể hiện mối quan hệ
cha - con, vợ - chồng, anh - em họ hàng. Điều
này dẫn đến cách ứng xử, xưng hô của người
Việt phong phú phức tạp có xu hướng “gia
đình hóa”. Đồng thời, văn hóa truyền thống
cho thấy người Việt rất coi trọng tình cảm,
thường lấy tình cảm làm chuẩn mực ứng xử,
“nặng tình mà nhẹ lý”. Do phải đấu tranh với
thiên nhiên khắc khiệt, với giặc ngoại xâm
trong nhiều thế kỷ vì sự sinh tồn, người Việt
có truyền thống gắn bó, yêu thương, giúp đỡ
lẫn nhau. Vì thế, người Việt rất coi trọng quan
hệ tình cảm, xem tình cảm là cơ sở để xử lý
các vấn đề nảy sinh trong đời sống cộng đồng.1
Có thể nói hệ thống xưng hô trong cách ứng
xử này đã tồn tại suốt chiều dài của lịch sử
của đất nước. Nó gắn bó với mỗi người Việt
Nam như chính máu thịt của mình và nó cũng
tác động vào mọi mặt hoạt động của đời sống
xã hội. Trong quá trình tác động đó văn hóa
truyền thống đã rất thành công khi thâm nhập
vào môi trường giao tiếp hành chính. Tuy
nhiên, sự sự thành công ấy không phải trên cơ
sở áp đặt khuôn mẫu mà có sự phù hợp, thích
ứng linh hoạt trong từng môi trường cụ thể.
Thông thường trong môi trường làm việc
tại các cơ quan thì cách xưng hô giữa thủ
trưởng với nhân viên và nhân viên với nhân

viên đều sử dụng hệ thống ngôn từ xưng hô
trong văn hóa giao tiếp cổ truyền của người
Việt Nam; thể hiện tính tôn ti trật tự kỹ lưỡng
về độ tuổi, về sự tôn trọng. Trong thực tế cho
thấy cách xưng hô trong văn bản và cách xưng
hô “mặt đối mặt” còn có độ vênh nhất định,
không trùng khớp với nhau. Biểu hiện cụ thể
là trong văn bản khi phải gọi đối tượng giao
tiếp tùy ý theo giới tính có thể gọi là ông hoặc
bà trong khi trong giao tiếp mặt đối mặt (hoặc
là qua điện thoại) thì không sử dụng các đại
từ mà chỉ dùng các danh từ thân mật hóa coi
mọi người trong văn phòng như bà con ruột
thịt. Trong khi chấp nhận lối xưng hô ông (bà)
trong văn bản thì người Việt Nam lại chưa
quen, đúng hơn là không mặn mà với cách
xưng hô theo lối ông (bà) khi giao tiếp trực
diện với nhau. Điều này xuất phát từ chính
tâm lý, thái độ giao tiếp của người Việt.
Dưới ảnh hưởng của văn hóa truyền thống
người Việt Nam không có thói quen gọi thẳng
tên đối tượng giao tiếp, vì như vậy sẽ bị xem
là thiếu lịch sự, thiếu tôn trọng người khác. Ví
dụ một nhân viên có thể gọi thủ trưởng là anh
X. Cách xưng hô trong văn phòng hành chính
chủ yếu thực hành theo cách hoặc đại từ nhân
xưng hoặc danh từ chỉ quan hệ thân mật “+”
tên người giao tiếp.
Thứ hai, văn hóa truyền thống tác động
đến giao tiếp hành chính văn phòng qua
cách thể hiện tâm lý, thái độ ứng xử
Người Việt có tính cấu kết cộng đồng
rất cao, thể hiện niềm tin vào làng xóm quê
hương, tình làng nghĩa xóm, “tối lửa tắt đèn
có nhau”. Người Việt thích lối giao tiếp tế nhị,
giữ gìn ý tứ và coi trọng sự hòa thuận. Trong
giao tiếp, người Việt còn rụt rè, dè dặt, đặc
biệt là ở các môi trường không quen thuộc.
Người Việt thích giao tiếp nhưng họ chỉ cảm
thấy tự nhiên, thoải mái trong cộng đồng quen
thuộc, còn khi trước mặt là người lạ hoặc chưa
thật sự quen biết thì thường ngại tiếp xúc, gặp
gỡ. Do coi trọng sự hòa thuận và quan niệm
“sự thật mất lòng” cho nên trong giao tiếp,
người Việt thường rất ý tứ, tế nhị, cân nhắc
lấy từng lời từng ý, ít khi họ nói thẳng vào
vấn đề, đặc biệt là các vấn đề “tế nhị”. Đồng
thời, cũng do xuất phát từ tâm lý cộng đồng
làng xã, người Việt rất thích quây quần hay

1 Trần Ngọc Thêm, Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, NXB
TPHCM, 1997

126

Ảnh hưởng của văn hóa . . .

gặp gỡ, thăm viếng nhau. Dù ở miền Bắc hay
miền Nam, ở đồng bằng hay miền núi, người
Việt đều quan niệm rằng sống cùng nhau thì
phải yêu thương đùm bọc, vui buồn cùng chia
sẻ. Người việt thường quan tâm hỏi han tìm
hiểu hoàn cảnh của nhau chẳng hạn quê quán,
nghề nghiệp, gia đình, bố mẹ, con cái... Điều
đó cho thấy trong văn hóa truyền thống Người
Việt thích giao tiếp và ưa tìm hiểu, đánh giá
đối tượng giao tiếp1. Chính nét văn hóa này
đã được tác động mạnh mẽ đến giao tiếp hành
chính văn phòng, làm nảy sinh một đặc tính
tâm lý trong giao tiếp hành chính văn phòng
của công chức là vừa thích giao tiếp lại vừa
rụt rè trong giao tiếp. Thích giao tiếp có thể do
động cơ thăng tiến hoặc có thể là do cá nhân
đã quen với môi trường hoạt động hoặc để tìm
kiếm cơ hội hợp tác. Còn rụt rè trong trong
tiếp có thể khởi nguồn từ những yếu kém về
chuyên môn, tự ti về vị trí nghề nghiệp hoặc
là ở một môi trường chưa quen biết... Một
trong những tâm lý, thái độ trong giao tiếp
hành chính văn phòng của người Việt Nam
là sự cả nể, tế nhị, luôn chủ động “dĩ hòa vi
quý”, thích lối mở đầu giao tiếp dài dòng, kiểu
“vòng vo tam quốc”cố tránh mở đầu theo lối
trực diện. Hơn nữa, trong giao tiếp hành chính
văn phòng các đối tượng giao tiếp luôn có thái
độ cân nhắc kỹ lưỡng khi xuất ngôn, quyết
định vấn đề.
Bên cạnh đó trong văn hóa truyền thống
của người Việt Nam có một nguyên tắc rất tối
quan trọng là phải luôn tôn trọng đối tượng
giao tiếp. Nguyên tắc này cũng đã có một chỗ
đứng vững chắc trong giao tiếp hành chính
văn phòng. Vì thế trở lại vấn đề xưng hô với
lối sử dụng đại từ nhân xưng ông - bà như
đã trình bày ở phần trên, chính là tuân theo
nguyên tắc tôn trọng này. Theo ấn tượng tâm
lý của người Việt Nam, thì đại từ ông - bà, khi
đã dùng để xưng hô kết hợp với khẩu khí kém
thiện chí (hoặc không kèm theo) thì đó có
thể là biểu hiện của sự coi thường, một điều
khó chấp nhận, nó chỉ được dùng khi diễn ra
xung đột hoặc tượng trưng cho sự xung đột
trong quan hệ. Điều này đã đi vào tiềm thức
của người Việt dường như khó xóa bỏ được.
Tính cộng đồng trong văn hóa Việt Nam đã

làm nảy nở tâm lý mong muốn cộng tác cũng
như cần có sự đồng cảm trong giao tiếp hành
chính văn phòng trong các cơ quan, tổ chức.
3. KẾT LUẬN
Văn hóa truyền thống luôn giữ vai trò là
nền tảng cho mỗi một quốc gia, dựa vào đó
người ta phân biệt được nền văn hóa nước này
với nước khác. Do đó điều mà không thể phủ
nhận là văn hóa truyền thống đã tác động khá
sâu sắc đến giao tiếp hành chính văn phòng
cả trên hai phương diện ưu điểm và hạn chế.
Sự tác động của văn hóa truyền thống dẫn
đến cách xưng hô, thái độ, cử chỉ trong giao
tiếp hành chính đã tạo nên bản sắc của các tổ
chức, là dấu hiệu để nhận diện và phân biệt
các cơ quan Nhà nước với các cơ quan của
các nước khác. Qua cách nhận diện đó, vai trò
của văn hóa truyền thống lại thực sự có ảnh
hưởng nổi bật. Trong quá trình tác động của
văn hóa truyền thống đến giao tiếp hành chính
văn phòng thì sự chuyển hóa của một loạt các
ngôn từ xưng hô dùng trong quan hệ thân
tộc, gia đình đã tạo ra những tác dụng tích
cực không thể phủ nhận. Đó là việc phi hành
chính hóa mối quan hệ, tạo nên mối quan hệ
gần gũi thân ái hơn giữa các thành viên trong
văn phòng, tăng cường sự ổn định, trật tự,
đoàn kết nhất trí nội bộ, tạo nên được sự phối
hợp trong quá trình giải quyết công việc thuận
lợi và đạt kết qủa tốt. Nói cách khác, nó đem
lại sự cộng tác và cộng cảm trong công việc
một cách bền vững cấu kết. Với sự ảnh hưởng
của văn hóa, xưng hô, tâm lý giao tiếp hành
chính văn phòng của cán bộ, công chức, viên
chức luôn tạo ra những ấn tượng tốt đẹp với
đối tượng giao tiếp, tạo ra nét đặc sắc trong
phong cách giao tiếp của người công chức
Việt Nam.Nét đẹp này cần được phát huy trên
tình thần kết hợp giữa truyền thống và hiện
đại trong nền văn hóa Việt.
Bên cạnh những ưu điểm trên thì sự tác
động của văn hóa giao tiếp truyền thống đã
để lại những hạn chế nhất định. Có thể nói
cách xưng hô và tâm lý giao tiếp hành chính
văn phòng rất dễ tạo nên sự trì trệ, những ảnh
hưởng tiêu cực, sự tùy tiện có thể làm mờ đi
sự khách quan, nhất là trong điều kiện chúng
ta đang xây dựng một nhà nước pháp quyền.
Chính các yếu tố văn hóa truyền thống cũng

1 Trần Ngọc Thêm, Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, NXB
TPHCM, 1997

127

nguon tai.lieu . vn