Xem mẫu

  1. Môn học:
  2. Câu hỏi: Phân tích ảnh hưởng của văn hóa phương Đông đến sự hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh.
  3. I. Nho giáo và tư tưởng Hồ Chí Minh 1/ Khái quát về Nho giáo Nho giáo ( 儒儒 ), còn được gọi là Khổng giáo ( 儒儒 ), là một hệ thống đạo đức, triết lý và tôn giáo do Khổng Tử phát triển để xây dựng một xã hội thịnh trị. Nho giáo rất phát triển ở các nước châu Á là Trung Quốc, Nhật Bản, Triều Tiên, và sớm du nhập vào Việt Nam. Cốt lõi của Nho giáo là Nho gia. Đó là một học thuyết chính trị nhằm tổ chức xã hội. Để tổ chức xã hội có hiệu quả, điều quan trọng nhất là phải đào tạo cho được người cai trị kiểu mẫu - người lý tưởng này gọi là quân tử.
  4. Trong Nho giáo có nhiều yếu tố duy tâm, cổ hủ như: + tư tưởng phân biệt đẳng cấp xã hội + tư tưởng coi thường người phụ nữ trong xã hội + tư tưởng coi thường lao động chân tay Tuy nhiên, Nho giáo cũng có những điểm tích cực, đó là: + triết lí nhân sinh thể hiện ở tư tưởng từ bậc thiên tử tới thứ dân phải lấy việc tu thân làm gốc. + lí tưởng về một một xã hội đại đồng có vua sáng tôi hiền, cha từ, con thảo. + tư tưởng đề cao văn hóa, lễ nghĩa truyền thống, coi trọng việc học hành. Hồ Chí Minh đã lựa chọn những yếu tố tích cực của Nho giáo đưa vào đó nội dung và ý nghĩa cho phù hợp với cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới.
  5. 2/ Ảnh hưởng của Nho giáo đến tư tưởng Hồ Chí Minh Nho giáo đã từng bén duyên với Nguyễn Ái Quốc từ thời niên thiếu và theo mãi Hồ Chí Minh cho tới trọn đời. Vì thế, không khó để nhận ra những ảnh hưởng của giáo lí này đến việc hình thành nên tư tưởng của Người . Thân là con một vị đại Nho: cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc, sinh ra và lớn lên tại môt vùng văn hoá mà dù đã có cảnh Hán học suy tàn: “Cô hàng bán sách lim dim ngủ Thầy khoá tư lương nhấp nhổm ngồi”
  6. Trước sự tấn công của văn hoá phương Tây trong tình trạng “Á - Âu xáo lộn”, trong tình trạng “mưa Âu gió Mĩ” xem ra đang một ngày một dồn dập, nhưng với riêng vùng đất văn hoá này (tức vùng Nghệ - Tĩnh) thì ảnh hưởng của Nho giáo vẫn đang được cố thủ, chưa hẳn đã lép vế so với Tây học. Bác còn lớn lên ở cái xứ Huế, kinh đô của triều Nguyễn, dù Tây học đã tràn đến trong chiều thắng thế dần, nhưng Nho học đâu đã chịu quy hàng hoàn toàn. Chế độ Nam triều còn đó với hệ thống quan lại hầu hết xuất thân khoa bảng, ít nhiều đóng vai trò căn cứ địa của Nho giáo. Những điều kiện khách quan trên đây cho phép nói đến ảnh hưởng Nho giáo đối với Hồ Chí Minh như là một điều tất yếu
  7. Chính lúc thiếu niên Nguyễn Tất Thành đã học chữ Hán trong đó có Nho giáo. Ảnh hưởng của Nho giáo đối với Hồ Chí Minh thể hiện rõ nhất trong nhiều bài viết của Người tính từ năm 1921 đến sau này mà có người đã tính được là hơn 100 trường hợp, trong đó lời Khổng Tử, Mạnh Tử chiếm nhiều nhất. Như vậy là thái độ của Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh đối với Khổng Tử và Nho giáo có sự phát triển qua các chặng thời gian nhưng rõ ràng nhất quán một quan điểm lịch sử đúng đắn, khẳng định đúng mức với lòng tôn kính những giá trị chân chính mà người xưa đã đạt được. Đương nhiên là trong suốt cuộc đời hoạt động của mình, Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh đã triệt để phê phán bác bỏ ý thức Nho giáo phong kiến phản tiến hoá.
  8. Trong xây dựng nhà nước, Hồ Chí Minh luôn nghĩ: - Xây dựng đất nước "thực túc, binh cường, dân tín" (Khổng Tử) tức là lương thảo nhiều, binh mạnh và lòng dân. Hoặc "dân vi bang bản" - lấy dân là gốc nước. Hay tư tưởng quan hệ giữa triều đình với dân như "thuyền với nước" (nước có thể chở thuyền nhưng cũng có thể lật thuyền) của Tuân Tử. ==> Xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân và "độc lập - tự do - hạnh phúc".
  9. - Người cầm quân phải thực hiện dưỡng dân, giáo dân: tức là nuôi dưỡng nhân dân như có chính sách hợp lòng dân (chính sách ruộng đất, chính sách thuế, xóa đói giảm nghèo...). Hồ Chí Minh nói "không sợ thiếu chỉ sợ không công bằng, không sợ nghèo chỉ sợ lòng dân không yên". Giáo dân tức là nâng cao dân trí, cải cách giáo dục, người cán bộ phải làm gương cho dân, phải dùng đức trị trong tư tưởng "tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ" của Nho giáo.
  10. Về đạo đức: Hồ Chí Minh sử dụng phạm trù đạo đức của Nho giáo, loại bỏ những yếu tố không còn phù hợp và bổ sung những yếu tố tích cực cho phù hợp với thời đại mới: - "Trung - hiếu": Nho giáo cho rằng Trung với vua và hiếu với cha mẹ. Hồ Chí Minh bổ sung là "Trung với nước hiếu với dân" để dạy cán bộ, "cần, kiệm, liêm, chính" & "chí công vô tư" để giáo dục cán bộ và người dân. Hồ Chí Minh đã khai thác Nho giáo, lựa chọn những yếu tố tích cực, phù hợp để phục vụ cho nhiệm vụ cách mạng.
  11. Ví dụ: Hồ Chí Minh vận dựng tư tưởng nho học của Nguyễn Trãi: Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân để hình thành nên tư tưởng "LẤY DÂN LÀM GỐC"; hoặc trong đường lối ngoại giao của Nhà nước ta lúc mới hình thành đó là "DĨ BẤT BIẾN, ỨNG VẠN BIẾN"... Người là tượng trưng cho sự kết hợp hài hòa giữa các nền văn hóa và tỏa ra một nền văn hóa của tương lai. Tiếp thu văn hóa phương Đông, trước hết là Nho giáo, Hồ Chí Minh đã đánh giá đúng đắn vai trò của Nho giáo và người sáng lập ra nó là Khổng Tử và đã đặc biệt khai thác những mặt tích cực
  12. Hơn ai hết, Hồ Chí Minh hiểu rõ những mặt bất cập, hạn chế của Nho giáo. Đó là trong Nho giáo có những yếu tố duy tâm, lạc hậu, phản động như tư tưởng đẳng cấp, khinh lao động chân tay, khinh phụ nữ, khinh thường thực nghiệm, doanh lợi…Tuy nhiên, Hồ Chí Minh cũng thấy được những mặt tích cực của nó và khuyên chúng ta “nên học”. Theo Người, mặt tích cực của Nho giáo là nó đề cao văn hóa, lễ giáo, tạo ra truyền thống hiếu học với châm ngôn “Học không biết chán, dạy không biết mỏi”. Về điểm này, Nho giáo hơn hẳn các học thuyết cổ đại, bởi vì nhiều học thuyết cổ đại chủ trương ngu dân để dễ cai trị.
  13. Hồ Chí Minh đã khai thác Nho giáo, lựa chọn những yếu tố tích cực, phù hợp để phục vụ cho nhiệm vụ cách mạng. Người dẫn lời của Lênin: “Chỉ có những người cách mạng chân chính mới thu hái được những điều hiểu biết quý báu của các đời trước để lại” Một lần nữa, ta thấy được rằng Hồ Chí Minh luôn biết cách tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa nhân loại, cụ thể ở đây là những tư tưởng tích cực trong Nho giáo: "Tôi tuyệt nhiên không ham muốn công danh phú quý chút nào. Riêng phần tôi thì làm một cái nhà nho nhỏ, nơi có non xanh nước biếc để câu cá trồng rau, sớm chiều làm bạn với các cụ già hái củi, trẻ em chăn trâu, không dính líu gì tới vòng danh lợi".
  14. II. Phật giáo và Hồ Chí Minh 1. Khái quát về Phật giáo Phật giáo là một trong những tôn giáo lớn trên thế giới được một nhân vật lịch sử là Tất-đạt-đa Cồ-đàm sáng lập khoảng thế kỉ thứ 5 trước Công nguyên. Cơ sở tư tưởng của Phật pháp là Tứ diệu đế (Khổ đế, Tập đế, Diệt đế, Đạo đế), là cốt lõi giáo pháp của đạo Phật, và cũng là điều mà Phật đã chứng ngộ lúc đạt đạo. Phật giáo là một trong những tôn giáo lớn trên thế giới được một nhân vật lịch sử là Tất-đạt-đa Cồ-đàm sáng lập khoảng thế kỉ thứ 5 trước Công nguyên. Cơ sở tư tưởng của Phật pháp là Tứ diệu đế (Khổ đế, Tập đế, Diệt đế, Đạo đế), là cốt lõi giáo
  15. Phật giáo có tư tưởng vị tha, từ bi, bác ái, cứu khổ, cứu nạn, thương người như thể thương thân; xây dựng nếp sống có đạo đức, trong sạch, giản dị, chăm lo làm điều thiện; đề cao tinh thần bình đẳng, tinh thần dân chủ chất phác chống lại mọi phân biệt đẳng cấp. Phật giáo Thiền tông coi trọng lao động, chống lười biếng. Phật giáo vào Việt Nam, gặp chủ nghĩa yêu nước, ý chí độc lập, tự chủ đã hình thành nên Thiền phái trúc lâm Việt Nam, chủ trương không xa đời mà sống gắn bó với nhân dân, với đất nước, tham gia vào cộng đồng, vào cuộc đấu tranh của nhân dân chống kẻ thù dân tộc. Phật giáo Việt Nam đã đi vào đời sống tinh thần dân tộc và nhân dân lao động, để lại dấu ấn sâu sắc trong tư tưởng Hồ Chí
  16. 2. Ảnh hưởng của Phật giáo đến sự hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh Cũng như Nho giáo, ở Hồ Chí Minh là sự tiếp thu có chọn lọc tinh tuý của Phật giáo - một nguồn gốc tư tưởng, triết lý, văn hóa phương Đông du nhập vào Việt Nam rất sớm. Những điểm tích cực của Phật giáo đã để lại những dấu ấn hết sức sâu sắc trong tư duy hành động, cách ứng xử của Hồ Chí Minh. Người kế thừa những tư tưởng tiến bộ, tích cực của Phật giáo, đó là tư tưởng vị tha, từ bi, bác ái, cứu khổ cứu nạn; nếp sống giản dị, thanh liêm; đề cao tinh thần bình đẳng; không xa rời đời sống mà luôn gắn bó với dân tộc, đất nước. Tiếp thu tư tưởng vị tha ở Phật giáo, Hồ Chí Minh là hiện thân của lòng nhân ái, độ lượng, khoan dung - những nét đặc trưng của giáo lý đạo Phật.
  17. Thứ nhất là, tư tưởng vị tha, từ bi, bác ái, cứu khổ cứu nạn, thương người như thể thương thân - một tình yêu bao la không chỉ dành cho con người mà dành cho cả chim muông, cây cỏ. Thứ hai là, nếp sống có đạo đức, trong sạch, giản dị, chăm lo làm điều thiện. Thứ ba là, tinh thần bình đẳng, tinh thần dân chủ chất phác chống lại mọi phân biệt đẳng cấp. Thứ tư là, Phật giáo Thiền tông đề ra luật “chấp tác”: “nhất nhật bất tác, nhất nhật bất thực” (một ngày không làm, một ngày không ăn), đề cao lao động, chống lười biếng.
  18. Cuối cùng, Phật giáo vào Việt Nam, gặp chủ nghĩa yêu nước, tinh thần đấu tranh bất khuất chống ngoại xâm của dân tộc ta, đã hình thành nên Thiền phái Trúc lâm Việt Nam, chủ trương sống không xa rời, lẩn tránh mà gắn bó với đời sống của nhân dân, với đất nước, tham gia vào cộng đồng, vào cuộc đấu tranh của nhân dân, chống kẻ thù dân tộc. Người đánh giá rất cao tư tưởng bình đẳng của nhà Phật: “Ta là Phật đã thành còn chúng sinh là Phật sẽ thành”
  19. Từ năm 1957, Hồ Chí Minh đã được các vị cao tăng của Ấn Độ phong tặng danh hiệu “vị Phật sống”. Bản thân Người, trong các thư gửi đến Giáo hội Phật giáo Việt Nam và Phật tín đồ Việt Nam, Người luôn coi Đức Phật là tấm gương “đại từ, đại bi, cứu khổ cứu nạn”. Sự anh hưởng cua tư tưởng đao đức Phât ̉ ̉ ̣ ̣ giao ở Hồ Chí Minh là rât tự nhiên, ́ ́ Như thế, có thể nói, những mặt tích cực của Phật Việt Nam đã đi vào đời sống tinh thần dân tộc và nhân dân lao động. Gia đình Bác Hồ là gia đình nhà nho nghèo, gần gũi với nông dân, cũng thấm nhuần tinh thần đó và để lại dấu ấn trong tư tưởng Hồ Chí Minh.
  20. III. Học thuyết Tam Dân và Hồ Chí Minh 1. Khái quát Tôn Trung Sơn (Tôn Dật Tiên) (1866-1925) là nhà chính trị cách mạng tiên phong của phong trào cách mạng dân chủ Trung Quốc đầu thế kỷ XX. Dựa trên sự tiếp thu những tư tưởng mới của thời đại để giải quyết những vấn đề cấp thiết của Trung Quốc thời kỳ cận đại, ông đã sáng tạo ra một hệ thống lý luận chính trị cách mạng sâu sắc - chủ nghĩa Tam dân, làm tôn chỉ cách mạng dẫn đường cho Cách mạng Tân Hợi năm 1911 thành công, lật đổ chế độ quân chủ chuyên chế kéo dài hơn hai ngàn năm và thiết lập nên nhà nước cộng hòa đầu tiên trong lịch sử Trung Quốc.
nguon tai.lieu . vn