- Trang Chủ
- Kinh tế học
- Ảnh hưởng của chính sách quốc gia tới kế sinh nhai và cảnh quan lưu vực sông Nam Thone, Lào
Xem mẫu
- SEANAFE Agroforestry Landscape Analysis Project
Phase 2 - Implementation
Completion Report
National Training Workshop on Agroforestry Landscape Analysis
Translation material
Case Study of Laos
Translated by
MSc. Tran Binh Da
With Funding Support and Technical Guidance from:
Sweden International Development Cooperation Agency
Southeast Asian Network for
Agroforestry Education
- Ảnh hưởng của chính sách quốc gia tới kế sinh nhai và Cảnh quan
lưu vực sông Nam Thone, Lào
Tg: Avakat Phasouysaingam1, Khamsavang Sombounkhanh2, Lamphoun
Xayvongsa3 và Sithong Thongmanivong4
1
Lecturer on Agro-ecology at the Faculty of Agriculture, National University of Laos
2
Lecturer on Soil and Crop Nutrition at the Champasak Agriculture and Forestry College,
Ministry of Agriculture and Forestry
3
Lecturer on Village forest managment at the Faculty of Forestry, National University of Laos
4
Lecturer on Land Use Planning at the Faculty of Forestry, National University of Laos
-------------------------------------------------------------
Đặt vấn đề
Nền kinh tế của Lào chủ yếu dựa trên các nguồn tài nguyên thiên nhiên. Hơn 45% GDP
là từ nông nghiệp, lâm nghiệp, chăn nuôi và ngư nghiệp. Tài nguyên thiên nhiên, đặc
biệt là nguồn lâm sản ngoài gỗ (NTFPs) là nguồn cung cấp lương thực, thực phẩm chủ
yếu và thu nhập của các hộ gia đình nông thôn. Tuy nhiên, từ những năm 1970, nguồn
tài nguyên rừng đã bị thoái hóa, đồng khoảng 33% tổng số hộ gia đình vẫn sống dưới
mức nghèo khó (Manivong và Sophathilath, 2007). Chính phủ Lào đã cố gắng để giải
quyết tình trạng này. Kể từ những năm 1990, Chính phủ Lào đã ban hành một số
chính sách liên quan đến tài nguyên rừng, việc sử dụng đất và giảm nghèo. Chính sách
Giao đất - giao rừng, đầu tư đất, giảm nghèo, phát triển sản xuất hang hóa trong nông
nghiệp và các chính sách phát triển lien vùng đã được đưa ra nhằm cải thiện cuộc sống
và duy trì việc sử dụng nguồn tài nguyên thiên nhiên. Tuy nhiên, một điều cần quan
tâm là những chính sách này có thực sự giúp cải thiện nguồn tài nguyên thiên nhiên,
cải thiện đời sống của người dân hay chỉ là sự chồng chéo, lộn xộn và các rào cản giữa
các cộng đồng địa phương. Do vậy, nghiên cứu về vấn đè này là hết sức cần thiết. Bài
viết này cố gắng nêu ra những phát hiện về hệ thống nông trại và nghiên cứu cuộc
sống ở Lưu vực sông Nam Thone đối với sự thay đổi trong các chính sách của chính
phủ Lào. Lưu vực sông có diện tích 73,000 hecta thuộc hyện Pakading, tỉnh
Bolikhamsay, ở trung tâm Lào.
Để điều tra và hiểu được những ảnh hưởng và thay đổi ở lưu vực sông này, nghiên cứu
này đã sử dụng phương pháp luận của GIS kết hợp với phân tích kinh tế xã hội. Các
cuộc phỏng vấn đã được thực hiện với các nhà chức trách địa phương có liên quan đến
việc họ đã đưa các chính sách của nhà nước vào thực tiễn như thế nào cũng như các
cuộc thảo luận với các lãnh đạo làng xã và nông dân địa phương trong bốn làng. Cuộc
thảo luận này tập trung vào những ảnh hưởng của các chính sách tới tình hình kinh tế
xã hội của họ. Bốn làng trong đó có hai làng nằm ở thượng lưu và hai làng nằm ở hạ
lưu đã được lựa chọn để tiến hành điều tra. Kết quà nghiên cứu ở vùng lưu vực này có
thể được tóm tắt như sau.
Phát triển cơ sở hạ tầng và dân số
Kể từ khi chính sách Kinh tế thị trường được giới thiệu vào những năm 1980, việc phát
triển cơ sở hạ tầng (đặc biệt là hệ thống đường và thủy lợi) nhằm đáp ứng sự phát
triển kinh tế xã hội đã được cải thiện. Con đường số 8 nối từ biên giới Thái Lan tới Việt
Nam hoàn thành vào năm 1998, đã làm gia tăng dòng người nhập cư. Kết quả là, dân
số ở lưu vực sông này đã tăng lên mạnh mẽ.
Dân số xung quanh lưu vực sông đã tăng lên đáng kể vào cuối những năm 1990 khi
chính phủ chấp nhận dân tị nạn người Hmông trở về từ Thái Lan. Một nhóm nhập cư
khác có khoảng 30 hộ gia đình đến từ Huaphan, tỉnh miền Tây Bắc Lào, vào năm
- 2000. Số làng của lưu vực sông đã tăng từ 26 lên 30 trong vòng 10 năm qua, trong đó
dân số tăng gấp đôi. Hiện nay, có khoảng 25,000 cư dân trong số đó 50% là nữ. Tất
cả những nhóm người này chủ yếu định cư trong một làng mới dọc theo hoặc liền kề
với các tuyến đường. Điều này cho thấy, mật độ dân số tập trung cao ở gần đường
giao thông chính, nơi thông tin và cơ sở hạ tầng được phát triển tốt. Một yếu tố khác
góp phần gia tăng dân số là sản xuất nông nghiệp. Rất nhiều dân làng đặc biệt di cư từ
Kham Keut và các huyện khác tới Nam Thone để canh tác lúa nước. Một lần nữa, hệ
thống tưới tiêu lại được trải rộng ra lưu vực sông Nam Thone. Về mặt logic, khi sản
lượng của cây rau và hoa màu được sản xuất với việc phát triển đường xá và cơ sở hạ
tầng tốt hơn, nó sẽ tạo ra cơ hội thu nhập tăng lên, và chất lượng cuộc sống sẽ tốt
hơn.
Phương kế sinh nhai và hệ thống nông nghiệp
Sau cuộc cải cách của nhà nước năm 1975, chính sách sinh sống đối với nông nghiệp
được đưa ra. Một hệ thống nông nghiệp tập thể hóa được xây dựng và thực hiện cho
tới đầu những năm 1980. Nông nghiệp tập thể tập trung vào các hoạt động nông
nghiệp bao gồm lúa nước và canh tác luân canh trong khi chăn nuôi gia súc vẫn là các
hoạt động cá thể. Trong suốt thời kỳ này, việc thiếu gạo là các vấn đề nan giải nhất.
Người ta nhận ra rằng một số hộ gia đình phải đối mặt với việc thiếu gạo trong cả
năm. Tuy nhiên, sau khi hệ thống tập thể hóa sụp đổ vào năm 1982, nông nghiệp bắt
đầu được thực hiện lại theo từng cá thể.
Hiện nay, có hai hệ thống nông nghiệp chính được thực hiện tại lưu vực sông này. Hệ
thống nông nghiệp tại vùng thượng lưu tiếp tục dựa chủ yếu vào canh tác nương rẫy,
chăn nuôi gia súc và khai thác lâ, sản ngoài gỗ. Trong khi, nông nghiệp tại khu vực hạ
lưu ngày càng phụ thuộc vào nông nghiệp chuyên canh các cây hoa màu như thuốc lá,
ngô, dưa chuột, dứa và rừng trồng. Bên cạnh đó, ngư nghiệp và dệt vải cũng tiếp tục
được tiến hành. Kế sinh nhai của người dân ở cả thượng lưu và hạ lưu đã cho thấy
những thay đổi theo hướng cải thiện. Người nghèo đã có thêm cơ hội tiếp xúc với giáo
dục, hệ thống vệ sinh, điện và các dịch vụ y tế.
Thay đổi diện tích che phủ rừng
Tỉ lệ che phủ rừng tại lưu vực sông chủ yếu là rừng nguyên sinh. Khoảng 12% trong
tổng số diện tích rừng được xác định là rừng phòng hộ và bảo tồn. Vào thập kỷ 1990,
diện tích rừng đã bị giảm và bị làm xáo trộn bởi nhiều hoạt động phát triển kinh tế xã
hội. Hầu hết dân làng quan tâm đến thực tế rằng xu hướng mất rừng tăng nhanh kể từ
năm 2000 sau khi cơ sở hạ tầng được phát triển và đầu từ vào đất đai được chính thức
mở ra đối với các nhà đầu từ nước ngoài và trong nước. Diện tích rừng nguyên sinh
giảm từ 48% năm 1992 xuống còn 42% năm 2000. Điều đó nghĩa là khoảng 1% diện
tích rừng bị mất mỗi năm. Ngược lại, rừng thứ sinh tăng từ 24% lên 33% trong vòng
tám năm. Nguyên nhân của việc phá rừng chủ yếu do việc thay đổi rừng để trồng cây
nông nghiệp và lâm nghiệp. Tuy nhiên, canh tác nương rẫy đặc biệt vẫn được diễn ra
tại vùng thượng lưu dọc theo tuyến đường số 8. Theo kết quả phỏng vấn, canh tác
nương rẫy là hoạt động chủ yếu của người dân nhập cư do họ thiếu các ruộng lúa
nước.
Quá trình thay đổi diện tích che phủ đất xuất hiện ở lưu vực sông được minh họa chi
tiết trong sơ đồ 1. Qua thời gian, rừng tự nhiên đã thay đổi. Nghiên cứu chỉ ra rằng
diện tích rừng nguyên sinh chủ yếu chỉ được chuyển đổi sang hai dạng: lâm nghiệp và
du canh quay vòng. Tuy nhiên, khi rừng tự nhiên được chuyển đổi sang đất rừng trồng
thì chỉ là rừng đơn loài và khó có thể cải tạo thành rừng ban đầu. Đất nương rẫy bỏ
hóa và diện tích lúa vùng đất thấp cho kết quả từ việc chuyển đổi từ rừng nguyên sinh
sang các mục đích du canh quay vòng. Thêm vào đó, một diện tích canh tác luân canh
có thể được sử dụng để phát triển lâm nghiệp và cả các cây rau/ hoa màu. Đôi khi, đất
rừng bỏ hoang chủ yếu được sử dụng cho hoạt động canh tác luân canh, có xu hướng
được cải tạo thành đất trồng cỏ cho gia súc và đầu tư lâm nghiệp và nó có tiềm nằng
tái sinh thành rừng thứ sinh và sau đó có thể thành rừng nguyên sinh. Thêm vào đó,
- đất trồng cây rau/ hoa màu có thể được sử dụng ở vùng lúa đất thấp và xung quanh
đường giao thông.
Sơ đồ 1: Quá trình chuyển đổi sử dụng đất
Rừng
Rừng thứ Canh tác
nguyên sinh
sinh luân canh
Vùng lúa đất
Đất bỏ hóa thấp
Cây rau/ hoa
Rừng trồng
Đất cỏ cho màu
gia súc
Kết luận
Nghiên cứu này cho thấy chính sách của chính phủ đóng một vai trò quan trọng ảnh
hướng tới diện tích che phủ rừng và việc sử dụng đất nông nghiệp cũng như đời sống
cả dân làng ở vùng lưu vực. Chính sách về việc tăng cường kết nối thương mại quốc tế
giữa Thái Lan và Việt Nam góp phần vào sự gia tăng dân số và cải thiện cuộc sống cho
họ. Sự phát triển giao thông và cơ sở hạ tầng tạo thêm cơ hội cho các cộng đồng địa
phương tiếp cận với thị trường. Các chính sách của chính phủ về nông sản hàng hóa đã
được dễ dàng hơn nhờ việc phát triển sự kết nối cùng giữa các quốc gia thúc đẩy việc
xóa đói giảm nghèo. Cuộc sống của cả cùng thượng và hạ lưu đang thay đổi rõ ràng
theo chiều hướng tốt đẹp hơn. Các chỉ số về chất lượng cuộc sống đã được tiếp cận
như vấn đề giáo dục, hệ thống vệ sinh, điện và dịch vụ y tế. Hơn nữa, hệ thống sản
xuất dựa chủ yếu vào dịch vụ sinh thái và tự cung tự cấp đã chuyển sang sản xuất
theo hướng hàng hóa bởi vì thực tế ở vùng hạ lưu đã được chứng tỏ qua việc tăng đầu
tư cho sản xuất cây công nghiệp và cây hàng hóa. Tuy nhiên, chính sách đầu tư đất
đai theo hình thức chuyển nhượng hay hợp đồng đã có ảnh hưởng đến diện tích đất
rừng. Do vậy, chính sách về đầu tư đất đai cần được xem xét lại để giữ lại diện tích
rừng tự nhiên hiện còn cho thế hệ tương lai.
nguon tai.lieu . vn